Buổi tháng giêng tháng hai anh còn ham Tam, Túc, Yêu, Lượng
Bước qua tháng chín tháng mười thì anh còn Mã, Tượng, Pháo, Xe
Em nói với anh, anh chẳng thèm nghe
Để chừ tay em ôm nón gạo, tay mót nạm củi nè, thảm chưa?
Tìm kiếm "tám chín mười"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Anh em chín họ mười đờiAnh em chín họ mười đời 
 Hai đằng cùng có, chẳng rời nhau ra
 Chị em cùng khúc ruột rà
 Kẻ giàu người khó, họ xa tám đời
- 
        
        
        
    
    Một nong tằm bằng năm nong kénMột nong tằm bằng năm nong kén 
 Một nong kén bằng chín nén tơ
 Em thương anh tháng đợi năm chờ
 Lòng nào dứt mối lìa tơ cho đành.Dị bản- Một nong tằm là năm nong kén 
 Một nong kén là chín nén tơ
 Quản bao tháng đợi năm chờ
 Ai ơi dứt mối lìa tơ sao đành
- Một nong tằm là năm nong kén 
 Một nong kén là chín nén tơ
 Thương anh chín đợi mười chờ
 Ai ơi dứt mối lìa tơ sao đành
 Video
- 
        
        
        
    
    Cưới em chín quả cau vàng
- 
        
        
        
    
    Vè bần phúThảo một bài bần phú, 
 Luận đôi câu nhơn nghĩa tinh vi.
 Kẻ đắc thời đắc lễ đắc nghi
 Người thất thế, thất thi thất nghiệp.Cũng có kẻ cực già đời mãn kiếp, 
 Cũng có người phong lưu tự bé chí già.
 Việc ấy nghĩ không ra,
 Chẳng biết tại căn hay là tại số?Cũng có kẻ ở phường, ở phố, 
 Cũng có người sầu giả lâm bô.
 Đã khắp trong cửu quận mười đô,
 Vì hai chữ phú bần lợn lạo. …
- 
        
        
        
    
    Chín đụn mười trâu, chết cũng hai tay cắp đítDị bản- Của giàu tám vạn nghìn tư, chết hai tay cắp lỗ đít 
 
- 
        
        
        
    
    Sáu chặt đầu
- 
        
        
        
    
    Cha mẹ nàng đòi ăn cơm trắng cá thuCha mẹ nàng đòi ăn cơm trắng cá thu 
 Gả con xuống biển mù mù tăm tăm
 Cha mẹ nàng đòi đi một trăm
 Anh đi chín chục mười lăm quan nòi
 Trong hộp có đôi bông tai
 Đem xuống thợ bạc đổ hai đôi vòng
 Anh thương em phải nói cho xong
 Kẻo bún em nguội kẻo lòng em thiu
 Lòng em thiu đem về hòa giấm
 Cau lòng tôm chẻ tấm phơi khô
 Đố em giỏi dám lấy chồng mô
 Lại đây qua kể công đồ cho mà nghe.Dị bản- Cha mẹ nàng muốn ăn cá thu 
 Bắt anh đánh lưới mù mù tăm tăm.
 Cha mẹ nàng đòi lễ một trăm,
 Anh đi chín chục mười lăm quan ngoài.
 Cha mẹ nàng đòi bông tai,
 Anh ra thợ bạc làm hai đôi vòng.
 
- 
        
        
        
    
    Vè bình dân học vụLẳng lặng mà nghe 
 Cài vè học vụ
 Đồng bào mù chữ
 Ở khắp mọi nơi
 Chiếm chín phần mười
 Toàn dân đất Việt
 Muôn bề chịu thiệt
 Chịu đui, chịu điếc
 Đời sống vùi dập
 Trong vòng nô lệ
 Hơi đâu mà kể
 Những sự đã qua
 Chính phủ Cộng hòa
 Ngày nay khác hẳn
 Đêm ngày lo lắng
 Đến việc học hành
 Mấy triệu dân lành
 Còn đương tăm tối
 Bị đời hất hủi
 Khổ nhục đáng thương
 Ngơ ngác trên đường
 Như mù không thấy
 Những điều như vậy
 Không thể bỏ qua …
- 
        
        
        
    
    Em là con gái nhà giàuEm là con gái nhà giàu 
 Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao
 Cưới em trăm tấm gấm đào
 Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời
 Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi
 Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng
 Sắm xe tứ mã đem sang
 Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu
 Ba trăm nón Nghệ đội đầu
 Một người một cái quạt Tàu thật xinh
 Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình
 May chăn cho rộng ta mình đắp chung
 Cưới em chín chĩnh mật ong
 Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò
 Cưới em tám vạn trâu bò
 Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
 Lá đa mặt nguyệt hôm rằm
 Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi
 Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi
 Xin chàng chín chục con dơi góa chồng
 Thách thế mới thỏa trong lòng
 Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân
- 
            Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. 
 Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Năm xưa anh ở trên trờiNăm xưa anh ở trên trời 
 Đứt dây rớt xuống làm người trần gian
 Năm xưa anh vẫn đi hàn
 Là nghề truyền kiếp tông đàng nhà ta
 Anh hàn từ nồi bảy, nồi ba
 Gặp cô mười tám đem ra anh cũng hàn
 Cô này to lỗ, tốn than
 Đồng đâu mà đổ cho giàn lỗ ni
 Hết đồng anh lại pha chì
 Anh hàn chín tháng, cô thì thụ thai
 Sinh được thằng bé con trai
 Về sau giống bố, gặp ai cũng hàn.
- 
        
        
        
    
    Em là thân phận nữ nhiEm là thân phận nữ nhi 
 Thầy mẹ thách cưới làm chi bẽ bàng
 Tiền thời chín hũ lồng quang
 Cau non trăm thúng họ hàng ăn chơi
 Vòng vàng kéo đủ mười đôi
 Nhẫn ba trăm chiếc, tiền thời mười quan
 Còn bao của hỏi của han
 Của mất tiền cưới của mang ta về
 Cưới ta trăm ngỗng nghìn dê
 Trăm ngan nghìn phượng ta về làm dâu
 Cưới ta chín chục con trâu
 Ba trăm con lợn đưa dâu về nhà
 Chàng về nhắn nhủ mẹ cha
 Mua tre tiện đốt làm nhà ở riêng
 Chàng về nhắn nhủ láng giềng
 Quét cổng quét ngõ, ra giêng ta về
 Ta về ta chẳng về không
 Voi thì đi trước ngựa hồng theo sau
 Ba bà cầm quạt theo hầu
 Mười tám người hầu đi đủ thì thôi
- 
        
        
        
    
    Cái gì anh đổ vào bồCái gì anh đổ vào bồ? 
 Cái gì róc vỏ phơi khô để dành?
 Cái gì anh thả vào xanh?
 Cái gì lắt lẻo trên cành tốt tươi?
 Cái gì đi chín về mười?
 Cái gì sống đủ trên đời được tám trăm năm?
 Cái gì chung chiếu chung chăn?
 Cái gì chung bóng ông trăng trên trời?
 Lúa khô anh đổ vào bồ
 Cau già róc vỏ phơi khô để dành
 Con cá anh thả vào xanh
 Bông hoa lắt lẻo trên cành tốt tươi
 Cái gì đi chín về mười
 Ông Bành Tổ sống đủ trên đời được tám trăm năm
 Vợ chồng chung chiếu chung chăn
 Đôi ta chung bóng ông trăng trên trời
- 
        
        
        
    
    Một mừng ăn một miếng trầuMột mừng ăn một miếng trầu 
 Hai mừng ta gặp nhau đây tự tình
 Ba mừng tài sắc đều xinh
 Bốn mừng bác mẹ sinh thành được đôi
 Năm mừng nguyện ước một lời
 Sáu mừng duyên phận bởi trời xui nên
 Bảy mừng gặp được bạn hiền
 Tám mừng giải tấm lòng nguyền thủy chung
 Chín mừng tài tử anh hùng
 Mười mừng ta ở cùng chung một nhà
 Mừng chàng mừng thực mừng thà
 Em nay tri kỉ không là mừng chơi
 Chàng ơi ghi hết mọi nơi
 Xin chàng mừng lại cho tôi bằng lòng
- 
        
        
        
    
    Chơi thuyềnCái mốt, cái mai 
 Con trai, con hến
 Con nhện chăng tơ
 Quả mơ, quả mận
 Cái cận, lên bàn đôi
 Đôi chúng tôi
 Đôi chúng nó
 Đôi con chó
 Đôi con mèo
 Hai chèo ba
 Ba đi xa
 Ba về gần
 Ba luống cần
 Một lên tư
 Tư củ từ
 Tư củ tỏi
 Hai hỏi năm
 Năm em nằm
 Năm lên sáu
 Sáu lẻ tư
 Tư lên bảy
 Bảy lẻ ba
 Ba lên tám
 Tám lẻ đôi
 Đôi lên chín
 Chín lẻ một
 Mốt lên mười
 Chuyền chuyền một, một đôi…
- 
        
        
        
    
    Vè uống rượuMột chén giải cơn sầu 
 Hai chén còn nhơn đạo
 Ba chén còn gượng gạo
 Bốn chén nổi sân si
 Năm chén sập thần vì
 Sáu chén ngồi ghì xuống đó
 Bảy chén thì đuổi chẳng đi
 Tám chén lóc trộn lộn ra
 Chín chén lóc trộn lộn vô
 Mười chén ai xô tôi ngã
 Mười một chén chửi cha ai xôDị bản- Uống một ly nhâm nhi tình bạn 
 Uống hai ly giải cạn cơn sầu
 Uống ba ly mũi chảy đầy râu
 Uống bốn ly ngồi đâu nói đó
 Uống năm ly cho chó ăn chè
 Uống sáu ly ai nói nấy nghe
 Uống bảy ly làm xe lội nước
 Uống tám ly chân bước chân quỳ
 Uống chín ly còn gì mà kể
 Uống mười ly khiêng để xuống xuồng
- Một xị giải phá cơn sầu 
 Hai xị mũi chảy đầy râu
 Ba xị nằm đâu ngủ đó
 Bốn xị cho chó ăn chè
 Năm xị làm xe lội nước
 Sáu xị vợ rước về nhà
 Bảy xị ông bà chửi nát
 Tám xị ra đống rác nằm
 Chín xị lên băng ca
 Mười xị ra nghĩa địa
- Nhất xị mở mang trí hoá, 
 Nhị xị giải phá thành sầu,
 Tam xị mũi chảy đầy râu,
 Tứ xị ngồi đâu “đứa” đó,
 Ngũ xị cho chó ăn chè,
 Lục xị vợ đè cạo gió,
 Thất xị mua hòm để đó,
 Bát xị … cho nó chết luôn!
 
- 
        
        
        
    
    Vè Lụt Bất QuáThuở vua Tự Đức trị vì 
 Thái hoà tự Võ khác gì Đường, Ngu
 Nơi nơi kích nhưỡng khang cù
 Thái Sơn bàn thạch cơ đồ vững an
 Tuy loài hải thủy sơn man
 Cũng mến oai đức thê bằng lai quy
 Cớ sao vận hội bất kỳ
 Năm ba mươi mốt can chi Mậu Dần
 Tai trời khắp xuống chúng dân
 Ba huyện Quảng Ngãi mười phần tả tơi
 Nắng cho năm bảy tháng trời
 Lúa lang bắp đậu cháy phơi cánh đồng
 Tháng ba bị háp đã xong
 Lúa nhồng, bát ngoạt làm đòng cũng khô …
- 
        
        
        
    
    Một năm chia mười hai kìMột năm chia mười hai kì 
 Em ngồi em tính khó gì chẳng ra
 Tháng giêng ăn tết ở nhà
 Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
 Tháng ba đi bán vải thâm
 Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
 Tháng sáu em đi buôn bè
 Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
 Chín, mười cắt rạ đồng mùa
 Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
 Anh ăn rồi anh lại nằm
 Làm cho em phải quanh năm lo phiền
 Chẳng thà lấy chú lực điền
 Gạo bồ thóc đống còn phiền nỗi chi?
- 
        
        
        
    
    Muối ba năm muối đang còn mặn
- 
        
        
        
    
    Thứ nhất vợ dại trong nhàThứ nhất vợ dại trong nhà 
 Thứ hai trâu chậm, thứ ba rựa cùn
 Thứ tư sớm vợ muộn con
 Thứ năm nhà dột, sáu buồn hết ăn
 Bảy buồn vợ chửi cằn nhằn
 Tám buồn nhà cửa một căn hẹp hòi
 Chín buồn nhà nợ đến đòi
 Mười buồn khách đến ngồi dai không vềDị bản- Thứ nhất vợ dại trong nhà 
 Thứ hai nhà dột, thứ ba nợ đòi
 
Chú thích
- 
    - Hốt me
- Còn có tên là đánh me hoặc đánh lú, một trò cờ bạc ngày trước, ban đầu chơi bằng hạt me, về sau thay bằng nút áo. Người ta dồn hạt me thành đống khoảng vài trăm hạt. Chiếu chơi me là vải bố dày phủ lên lớp sơn trắng, trên vạch hai đường chéo đen thành một dấu nhân ( x ) chia mặt vải thành bốn ô là Tam, Túc, Yêu, Lượng, lần lượt tương ứng với 1, 2, 3, và 4 hạt. Trước khi cược tiền, chủ cái dùng một cái que gạt bằng tre gạt từ đống hạt me ra phía trước một số lượng hạt ngẫu nhiên. Khi các con bạc cược tiền vào ô mình chọn xong, chủ cái dùng que gạt để đếm hạt me. Cứ mỗi lần gạt 4 hạt rồi lùa vào trong cho đến lượt cuối cùng chỉ còn lại 4 hạt trở xuống. Nếu thừa 1 hạt là Tam, 2 hột là Túc, 3 hạt là Yêu, 4 hạt là Lượng, rồi căn cứ vào đó mà chung tiền.
 
- 
    - Chừ
- Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Nạm
- Nắm, nhúm (nạm tóc, nạm gạo...).
 
- 
    - Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
 
- 
    - Khắc
- Đơn vị tính thời gian ban ngày thời xưa. Người xưa chia ban ngày ra thành sáu khắc (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo Lý Thái Thuận, khắc một là giờ Mão/Mạo (5h-7h), khắc hai là giờ Thìn (7h-9h), khắc ba là giờ Tị (9h-11h), khắc tư là giờ Ngọ (11h-13h), khắc năm là giờ Mùi (13-15h), khắc sáu là giờ Thân (15-17h). Theo đó, giờ Dậu (17-19h) không thuộc về ngày cũng như đêm. Xem thêm chú thích Canh.
 
- 
    - Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
 
- 
    - Chum
- Đồ đựng bằng sành, bụng tròn, thường dùng để chứa mắm, nước hoặc gạo.
 
- 
    - Cheo
- Khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái khi làm lễ dạm hỏi theo tục lệ xưa.
 
- 
    - Thảo
- Viết ra.
 
- 
    - Nghĩa nhân
- Cũng viết nhân nghĩa, nghĩa là "lòng yêu thương người (nhân) và biết làm điều phải (nghĩa)." Hiểu rộng là đạo nghĩa sống ở đời.
 
- 
    - Đắc thời đắc lễ đắc nghi
- Được thời thì được lễ nghi (chữ Hán).
 
- 
    - Thất thế
- Mất thế lực, mất chỗ tựa. Từ chữ Hán thất 失 (mất) và thế 勢 (thế lực).
 
- 
    - Thất nghiệp
- Không có nghề nghiệp, việc làm.
 
- 
    - Mãn kiếp
- Suốt đời, cho đến tận lúc chết (thường nói về việc không hay).
 
- 
    - Phong lưu
- Ngọn gió bay (phong), dòng nước chảy (lưu). Từ này vốn nghĩa là phẩm cách, tinh thần riêng của mỗi người, hiểu rộng ra là sung sướng, vui với cảnh, không phải chịu buồn khổ.
Cõi trần thế nhân sinh là khách cả 
 Nợ phong lưu kẻ giả có người vay
 (Nợ phong lưu - Nguyễn Công Trứ)
 
- 
    - Chí
- Đến, kéo dài cho đến (từ Hán Việt).
 
- 
    - Căn
- Gốc rễ (chữ Hán). Khái niệm căn thường được gặp trong lí thuyết Phật giáo, chỉ những điều căn bản, gốc rễ của nhận thức, sự việc.
Thiện căn ở tại lòng ta 
 Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Số kiếp
- Vận mệnh của một đời người.
 
- 
    - Lâm bô
- Có nguồn gốc từ danh từ limbo trong tiếng Bồ Đào Nha, có nghĩa là một nơi giam cầm các linh hồn hay đang ở vào một tình trạng nào đó dang dở.
 
- 
    - Cửu
- Số chín, thứ chín (từ Hán Việt)
 
- 
    - Lợn lạo
- Có thể là cách đọc trại đi của từ lộn lạo.
 
- 
    - Đụn
- Kho thóc.
 
- 
    - Cá thu
- Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon.
 
- 
    - Bình dân học vụ
- Tên một phong trào do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động sau cách mạng tháng Tám để xóa nạn mù chữ (diệt giặc dốt), có sử dụng các câu văn vần mô tả bảng chữ cái cho dễ thuộc: I, tờ (t), có móc cả hai. I ngắn có chấm, tờ dài có ngang
Từ "i tờ" về sau chỉ trình độ học vấn vỡ lòng. 
 
- 
    - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Tên một nhà nước được Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập năm 1945, tồn tại cho đến sau 1976 thì sáp nhập với nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Xem thêm.
 
- 
    - Gấm
- Một loại vải dệt từ tơ tằm có nền dày, bóng. Nền gấm thường có hoa văn hay chữ Hán với màu sắc sặc sỡ bằng kim tuyến, ngân tuyến được dệt như thêu. Một tấm gấm thường có nhiều màu, phổ biến là năm màu hay bảy màu, gọi là gấm ngũ thể hay thất thể. Do sợi ngang (tạo hoa nổi lên trên) và sợi dọc (tạo nền chìm ở dưới) đều được nhuộm màu nên khi dưới những góc nhìn khác nhau, gấm sẽ có nhiều màu sắc khác nhau. Gấm có vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ nên ngày xưa chỉ dành may y phục của vua chúa và quan lại, thường dân không được dùng.
 
- 
    - Tráp
- Đồ dùng hình hộp nhỏ bằng gỗ, thời trước dùng để đựng các vật nhỏ hay giấy tờ, trầu cau. Ở miền Trung, từ này cũng được phát âm thành trắp.
 
- 
    - Thuốc xỉa
- Một nhúm thuốc lào được ngậm bằng môi trên trong lúc ăn trầu để tẩy cổ trầu (nước bọt có màu hồng) và xác trầu bám vào răng. Động tác bỏ thuốc xỉa vào miệng gọi là xỉa thuốc.
 
- 
    - Bình vôi
- Ngày xưa nhân dân ta thường hay ăn trầu với cau và vôi. Bình vôi là dụng cụ bằng gốm hay kim loại để đựng vôi ăn trầu, đôi khi được chế tác rất tinh xảo, và tùy theo hình dạng mà cũng gọi là ống vôi.
 
- 
    - Xe tứ mã
- Xe bốn ngựa kéo.
 
- 
    - Quan viên
- (Kiểu cách) quan khách, những người tham dự cuộc vui nói chung.
 
- 
    - Nón Nghệ
- Thứ nón tốt xưa làm tại Nghệ An.
 
- 
    - Nhiễu
- Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát.
 
- 
    - Cót
- Đồ đựng được làm bằng tấm cót đan từ những nan tre nứa mỏng đan chéo và khít vào nhau, quây kín, đặt trên một cái nong.
 
- 
    - Xôi vò
- Xôi nấu rồi trộn đều với đậu xanh chín giã nhỏ.
 
- 
    - Vò
- Hũ lớn làm bằng sành sứ, thường để đựng nước uống, rượu.
 
- 
    - Cuội
- Một nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam. Chú Cuội (hay thằng Cuội) là một người tiều phu. Cuội có một cây đa thần, lá có khả năng cải tử hoàn sinh. Một hôm vợ Cuội tưới nước bẩn vào gốc cây đa, cây đa trốc gốc bay lên trời. Cuội bám vào rễ đa kéo lại, nhưng cây đa bay lên đến tận cung Trăng. Từ đó trên cung Trăng có hình chú Cuội. (Xem thêm: Sự tích chú Cuội cung trăng).
 
- 
    - Thiên Lôi
- Vị thần có nhiệm vụ làm ra sấm sét theo tưởng tượng của người xưa. Thiên Lôi thường được khắc họa là một vị thần tính tình nóng nảy, mặt mũi đen đúa dữ tợn, tay cầm lưỡi búa (gọi là lưỡi tầm sét). Trong văn hóa Việt Nam, Thiên Lôi còn được gọi là ông Sấm, thần Sấm, hoặc thần Sét.
 
- 
    - Tông đường
- Tổ tông, dòng họ (từ Hán Việt). Ở miền Nam, từ này cũng được phát âm thành tông đàng.
 
- 
    - Nồi bảy, nồi ba
- Cách phân loại độ lớn của nồi thời xưa. Nồi bảy nấu được bảy lon gạo, nồi ba nấu được ba lon.
 
- 
    - Ni
- Này, nay (phương ngữ miền Trung).
 
- 
    - Nữ nhi
- Con gái nói chung.
 
- 
    - Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
 
- 
    - Bồ
- Đồ cỡ lớn đựng thóc lúa, thường đan bằng tre.
 
- 
    - Xanh
- Dụng cụ để nấu, làm bằng đồng, có hai quai, giống cái chảo lớn nhưng đáy bằng chứ không cong.
 
- 
    - Bành Tổ
- Cũng có tên là Bành Khang, một nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc. Chuyện kể rằng một hôm Bành Khang nấu một nồi canh gà rừng dâng lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng ưng ý, liền bảo: "Nhà ngươi đếm trên mình gà có bao nhiều sợi lông màu sắc rực rỡ thì nhà ngươi sống được bấy nhiêu tuổi". Bành Khang tìm lại đống lông gà, đếm được 800 sợi, nhờ đó sống được 800 tuổi. 
Trong văn hóa Trung Quốc, ông Bành Tổ được xem là biểu tượng cho sự trường thọ. 
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Bác mẹ
- Cha mẹ (từ cổ).
 
- 
    - Tri kỉ
- Người thân thiết, hiểu rõ mình, từ chữ tri (biết) và kỉ (mình).
 
- 
    - Nhơn đạo
- Nhân đạo (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Sân si
- Sân: nóng giận, thù hận; Si: si mê, ngu tối. Theo quan niệm Phật giáo, tham, sân, si là tam độc, những nguyên nhân gây nên nỗi khổ của con người.
 
- 
    - Thần vì
- Cũng gọi là thần vị, thần chủ, chỉ bài vị của người chết.
 
- 
    
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Xị
- Đơn vị đo thể tích (thường là rượu) của người bình dân, cỡ 1/4 lít.
 
- 
    - Băng ca
- Cáng y tế dành khiêng người bị thương hoặc đau ốm, lấy từ từ brancard trong tiếng Pháp.
 
- 
    - Tự Đức
- (1829 – 1883) Vị hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến nước ta. Thời gian ông ở ngôi đánh dấu nhiều sự kiện trong lịch sử nước ta, trong đó quan trọng nhất là tháng 8/1858, quân Pháp nổ phát súng đầu tiên tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho thời kì thống trị của người Pháp ở Việt Nam.
 
- 
    - Nguyễn Phúc Khoát
- Còn gọi là Chúa Vũ, Chúa Khoát, hay Võ Vương, Vũ Vương (1714-1765), vị chúa Nguyễn thứ 8 trong lịch sử nước ta. Ông được đánh giá là có công xây dựng Đô thành Phú Xuân (thế kỷ 18), hoàn thành công cuộc Nam tiến của người Việt (bắt đầu từ thế kỉ 11 và hoàn tất vào thế kỉ 18 để có toàn vẹn lãnh thổ như hiện nay), và được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam (theo sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn và Đại Nam Thực Lục Tiền Biên của nhiều sử quan thuộc Quốc Sử Quán). 
Ông là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Chu và mẹ là Thục phi Trương Thị Thư. Lúc thế ngôi chúa của cha năm 24 tuổi, ông lấy hiệu là Từ Tế Đạo Nhân (vì chuộng đạo Phật). Năm 1744, sau nhiều thành tựu đối nội, quần thần dân biểu tôn Chúa Vũ lên ngôi vương, tục gọi là Võ Vương. Năm Võ Vương mất (1765), ông được truy tôn là Thế Tôn Hiếu Võ Hoàng Ðế. 
 
- 
    - Kích nhưỡng khang cù
- Kích nhưỡng và Khang cù là tên hai bài ca dao thời vua Nghiêu bên Trung Hoa. Kích nhưỡng khang cù chỉ cảnh thiên hạ thái bình, nhân dân vui chơi ca hát.
 
- 
    - Thái Sơn
- Một ngọn núi ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, là một trong năm ngọn núi thiêng của Trung Quốc (gồm Hành Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn và Tung Sơn). Núi Thái Sơn được xem là thiêng nhất trong năm ngọn núi này.
 
- 
    - Bàn thạch
- Đá tảng (từ Hán Việt).
 
- 
    - Hải thủy sơn man
- Những loài quái vật dưới nước và man di mọi rợ trên núi.
 
- 
    - Quảng Ngãi
- Địa danh nay là một tỉnh nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, nằm hai bên bờ sông Trà Khúc, được mệnh danh là vùng đất Núi Ấn Sông Trà. Quảng Ngãi là mảnh đất có bề dày lịch sử về văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm Pa, đặc biệt là hệ thống thành lũy Chàm. Tại đây cũng nổi tiếng cả nước với đặc sản đường mía (đường phèn, đường phổi, mạch nha...) và tỏi ở Lý Sơn.
 
- 
    - Cháy háp
- Cháy một phần.
 
- 
    - Lúa nhồng
- Còn đọc là lúa nhộng, chỉ lúa trổ bông bị nghẽn không thoát ra gié lúa, giống như con nhộng còn trong tổ kén. Hiện tượng nhộng lúa thường xảy ra khi lúa sắp trổ gặp thời tiết hạn hán, khô nước.
 
- 
    - Tháng một
- Tháng thứ mười một trong âm lịch, tục gọi là tháng Một (không phải là nói tắt của "tháng Mười Một").
 
- 
    - Chạp
- Tháng thứ mười hai âm lịch. Có thuyết cho chạp do đọc trạch từ tiếng Hán lạp nguyệt mà ra.
 
- 
    - Lực điền
- Người làm ruộng có sức khỏe.
 
- 
    - Cương thường
- Cũng đọc là cang thường, cách nói tắt của tam cương ngũ thường, một khái niệm về đạo lí của Nho giáo trong chế độ phong kiến dành cho nam giới. Tam cương nghĩa là ba giềng mối (cương là đầu mối của lưới, nắm được cương thì các mắt lưới sẽ giương lên), gồm có quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), và phu phụ (chồng vợ). Ngũ thường (năm đức tính phải có) gồm: Nhân (đức khoan dung), lễ (lễ độ), nghĩa (đạo nghĩa), trí (trí tuệ) và tín (lòng thành thật).
Trong ca dao - dân ca, đạo cang thường thường dùng để chỉ tình cảm vợ chồng. 
 
- 
    - Rựa
- Một loại công cụ có lưỡi dài, cong, cán dài, dùng để chặt cây, phát quang. Lưu ý, cái rựa khác với dao rựa, một loại dao lớn, bản to, sống dày, mũi bằng, dùng để chặt, chẻ.
 
 
                                
                            





















