Những bài ca dao - tục ngữ về "nhậu nhẹt":

  • Vè uống rượu

    Một chén giải cơn sầu
    Hai chén còn nhơn đạo
    Ba chén còn gượng gạo
    Bốn chén nổi sân si
    Năm chén sập thần vì
    Sáu chén ngồi ghì xuống đó
    Bảy chén thì đuổi chẳng đi
    Tám chén lóc trộn lộn ra
    Chín chén lóc trộn lộn vô
    Mười chén ai xô tôi ngã
    Mười một chén chửi cha ai xô

    Dị bản

    • Uống một ly nhâm nhi tình bạn
      Uống hai ly giải cạn cơn sầu
      Uống ba ly mũi chảy đầy râu
      Uống bốn ly ngồi đâu nói đó
      Uống năm ly cho chó ăn chè
      Uống sáu ly ai nói nấy nghe
      Uống bảy ly làm xe lội nước
      Uống tám ly chân bước chân quỳ
      Uống chín ly còn gì mà kể
      Uống mười ly khiêng để xuống xuồng

    • Một xị giải phá cơn sầu
      Hai xị mũi chảy đầy râu
      Ba xị nằm đâu ngủ đó
      Bốn xị cho chó ăn chè
      Năm xị làm xe lội nước
      Sáu xị vợ rước về nhà
      Bảy xị ông bà chửi nát
      Tám xị ra đống rác nằm
      Chín xị lên băng ca
      Mười xị ra nghĩa địa

    • Nhất xị mở mang trí hoá,
      Nhị xị giải phá thành sầu,
      Tam xị mũi chảy đầy râu,
      Tứ xị ngồi đâu “đứa” đó,
      Ngũ xị cho chó ăn chè,
      Lục xị vợ đè cạo gió,
      Thất xị mua hòm để đó,
      Bát xị … cho nó chết luôn!

  • Vè thịt chó

    Nghe vẻ nghe ve
    Nghe vè thịt chó
    Thằng nào chịu khó
    Bắt nước cạo lông
    Thằng nào ở không
    Rang mè rang đậu
    Thằng nào muốn nhậu
    Thì đặt tiền mua
    Thằng nào muốn vô
    Thì ngồi chính giữa
    Thằng nào ói mửa
    Thì đạp xuống sông
    Đánh lộn la làng
    Cũng vì thịt chó

  • Con thì đói khóc như ri

    Con thì đói khóc như ri
    Chồng thì uống rượu li bì ngày đêm
    Đem tiền mua lấy cái say
    Hơi men giở giọng bầy nhầy bên tai
    Bữa hôm cùng với bữa mai
    Cua rang ốc nướng kéo dài thâu canh
    Xương sông lá lốt lá chanh
    Rau thơm rau húng tỏi hành chắt chiu
    Trách ai không nghĩ một điều
    Vợ con nheo nhóc nỡ liều uống say

  • Chim khôn lựa cành mà đậu

    Chim khôn lựa cành mà đậu
    Gái khôn kiếm nơi nhân hậu mà nhờ
    Đừng ham lấy công tử bột dật dờ tấm thân

    Dị bản

    • Con chim khôn kiếm cành xanh mà đậu
      Gái khôn kiếm trai đôn hậu làm chồng
      Cô bác xa dòm ngó nói phụng với rồng sánh đôi

    • Chim khôn kiếm nơi lùm xanh nó đậu
      Gái như em sao không kiếm nơi nhân hậu làm chồng
      Thả chi theo đàng điếm đứng đường hư thân

    • Con chim khôn kiếm cành lành mà đậu
      Con gái khôn kiếm thằng chồng nhậu mà nhờ
      Mai sau nó chết bụi, chết bờ, khỏi chôn!

    • Chim khôn kiếm lùm cây mà đậu
      Gái khôn kiếm thằng chồng nhậu mà nhờ
      Mai sau nó chết bụi chết bờ khỏi chôn!

    • Chim khôn tìm cây lành mà đậu
      Gái khôn tìm thằng chồng nhậu mà nhờ
      Mai kia nó chết bụi chết bờ
      Khỏi lo nhang khói phụng thờ uổng công

Chú thích

  1. Nhơn đạo
    Nhân đạo (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  2. Sân si
    Sân: nóng giận, thù hận; Si: si mê, ngu tối. Theo quan niệm Phật giáo, tham, sân, si là tam độc, những nguyên nhân gây nên nỗi khổ của con người.
  3. Thần vì
    Cũng gọi là thần vị, thần chủ, chỉ bài vị của người chết.
  4. Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi.
  5. Xị
    Đơn vị đo thể tích (thường là rượu) của người bình dân, cỡ 1/4 lít.
  6. Băng ca
    Cáng y tế dành khiêng người bị thương hoặc đau ốm, lấy từ từ brancard trong tiếng Pháp.
  7. Chim ri
    Một loài chim như chim sẻ, ăn thóc gạo và các loại hạt. Văn học thường dùng các thành ngữ "khóc như ri," "nổi như ri..."

    Chim ri

    Chim ri

  8. Xương sông
    Loài cây có thân thẳng đứng, cao khoảng một mét hoặc hơn. Lá thuôn dài, mép có răng cưa, có mùi hơi hăng của dầu. Lá xương sông là một loại rau gia vị phổ biến, và cũng là vị thuốc chữa bệnh đường hô hấp, cảm cúm...

    Lá xương sông

    Lá xương sông

  9. Lá lốt
    Một loại cây cho lá có mùi thơm đặc trưng, thường được dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Trong số các món ăn có lá lốt, đặc sắc nhất phải kể đến bò nướng lá lốt. Ở một số địa phương Nam Bộ, loại cây này cũng được gọi là lá lốp.

    Lá lốt

    Lá lốt

  10. Rau húng
    Tên chung cho một số loài rau thuộc họ Bac Hà. Rau húng có nhiều loài, tên gọi mỗi loài thường chỉ mùi đặc trưng hay cách sinh trưởng của cây như húng quế (miền Nam gọi là rau quế) có mùi quế, húng chanh (miền Nam gọi là rau tần dày lá) có mùi tương tự chanh, húng lủi vì cây rau bò sát mặt đất... Ở miền Trung và miền Nam, một số loài húng được gọi tên là é. Rau húng là gia vị đặc sắc và không thể thiếu trong các món ăn dân gian như nộm, dồi, lòng lợn, tiết canh, thịt vịt, phở, bún... Tinh dầu trong lá và ngọn có hoa của một số loại húng được có tác dụng chữa bệnh (ví dụ húng chanh trị ho) hoặc dùng làm nguyên liệu sản xuất hương phẩm. Ở miền Nam, người ta lấy hạt húng quế (hạt é) làm nước uống giải nhiệt.

    Làng Láng thuộc Thăng Long xưa là nơi nổi tiếng với nghề trồng rau húng lủi, gọi là húng Láng.

    Rau húng

    Húng lủi (húng Láng)

  11. Rượu tăm
    Loại rượu ngon, khi lắc thì sủi tăm lên.
  12. Công tử bột
    Trong tác phẩm Bến Nghé xưa, nhà văn Sơn Nam cho rằng thành ngữ Công tử bột có nguồn gốc từ một nhân vật trong hát bội tên là Hoa Bột, Ba Bột: "Hoặc hát khách thằng Bột: rượu bọt ngon, con gái tốt đẹp, xang xang xang cống xang xê cống cống xang xê. Hoa Bột, Ba Bột là tên của nhân vật xấu gần như vai hề, tính tình kiêu hãnh trong tuồng hát bội (nay hãy còn gọi là công tử bột). Trong Kim Thạch Kì Duyên của Thủ Khoa Nghĩa có bài hát thằng Bột: Cậu Ái Lang chữ đặt, cha tri phủ giàu sang, như nhà cụ: cửa nhà chớn chở bạc vàng, hầu thiếp nhởn nhơ điếu đỏ. Nói chi bạn hàng cũ, nuốn con gái nguyên. Cậu chơi hoài hoài, thiên hoàng thiến chi hoang, sướng đế sướng đê chí sướng…"

    Ngày nay thành ngữ này dùng để chỉ những công tử, cậu ấm con nhà giàu, không biết làm việc gì, chỉ biết chơi (hoặc học).