Ca dao Mẹ

  • Vè bần phú

    Thảo một bài bần phú,
    Luận đôi câu nhơn nghĩa tinh vi.
    Kẻ đắc thời đắc lễ đắc nghi
    Người thất thế, thất thi thất nghiệp.

    Cũng có kẻ cực già đời mãn kiếp,
    Cũng có người phong lưu tự bé chí già.
    Việc ấy nghĩ không ra,
    Chẳng biết tại căn hay là tại số?

    Cũng có kẻ ở phường, ở phố,
    Cũng có người sầu giả lâm bô.
    Đã khắp trong cửu quận mười đô,
    Vì hai chữ phú bần lợn lạo.

    Kẻ lớn tiếng ỷ tiền ỷ gạo,
    Người nhỏ hơi vì bởi bần cùng.
    Lưng không tiền kêu gọi đứa khùng,
    Cầm bạc nén nâng niu người trí.

    Đã khắp trong luân lý,
    Lựa rằng phải là phi.
    Hễ sang giàu túc thực túc y
    Bằng đói khó bần hàn cơ cẩn

    Bề thê tử mảng lo xẩn bẩn,
    Việc lễ nghi thiếu trước hụt sau.
    Giàu có tiền kêu chậm quá mau,
    Nghèo trước mặt hỏi ai không có.

    Tiền trong túi ngồi khoanh xếp đó,
    Bạc đầy rương làm bộ hộ nhàn.
    Giàu có tiền ở chốn lâm san
    Nhiều kẻ tới kêu anh kêu chị.

    Giận thế sự “chơn vi hồ mị”,
    Ghét nhơn gian “chỉ thị khi cơ”.
    Thuở thất thời muốn đuổi muốn xô,
    Cơn đắc thế muốn bồng muốn ẵm.

    Sao chẳng sợ thiên oai lẩm lẩm,
    Mà không kiên búa nguyệt trùng trùng.
    Anh em nghèo xem thể người dưng,
    Giàu khác họ nói rằng thân quyến.

    Vậy mới là sáng kiến,
    Vậy mới gọi chòm ong.
    Nhiều kẻ ở không xong,
    Hay quen tài không quen ngởi.

    Bắt chước chi người Dương Khởi
    Mà phú đấu làm chi?
    Giàu Thạch Sùng, giàu thị giàu phi,
    Khó Tăng Tử, khó càng có tiếng.

    Rất đổi kiệm là người Tử Yến,
    Áo hồ cừu tam thập dư niên.
    Sao chẳng sống mà làm tiên,
    Thác làm chi cho uổng kiếp?

    Sách có chữ: Bá niên lưu sự nghiệp,
    Giai đo tống thị hồ không.
    Còn chi nữa mà trông?
    Còn chi đâu mà đợi?

    Sao chẳng làm chút nhân chút ngởi,
    Để cho thiên hạ nhắc đời.
    Nói như vậy chưa cạn đôi lời,
    Phân như vậy chưa đà hẳng lẻ.

    Phải chi ai biết bói,
    Bói cho tin một quẻ, bói cho tin một lời.
    Bói cho biết đất biết trời.
    Bói cho biết nhơn biết loại.

    Sao những kẻ khôn khôn dại dại,
    Sao những người dại dại khôn khôn.
    Cũng có người chức tước quyền môn.
    Cũng có kẻ bần hàn mà cô độc.

    Sách nào nói là nhơn vô lộc,
    Sách nào truyền hà thảo vô căn.
    Làm cháy da không đủ mà ăn,
    Chơi ngã nghến mà no ấm cật.

    Nghèo thỏn mõn lo bề cấy gặt,
    Giàu ước mong tới thuở mà thâu.
    Cuộc phú bần ai dễ biết đâu,
    Do thiên định kiếp căn mạng số.

    Cũng có kẻ giàu mà ham hố,
    Cũng có người trí hóa tài mưu.
    Cũng có người bần tiện lại phong lưu,
    Cũng có kẻ phiêu lưu đoạt loạn.

    Sao những kẻ cờ cờ bạc bạc,
    Sao những người rượu rượu trà trà.
    Đàn ông chí những đàn bà,
    Cũng có kẻ trai son, người gái góa.

    Bói cho biết vàng vàng đá đá,
    Bói cho hay đá đá vàng vàng.
    Tôi họ Hàn ở chốn lâm san,
    Ngày hai bữa cháo cơm phải nhịn.

    Thuở đói rách liền tranh đà chẳng kín,
    Khi sang giàu ăn mặc phủ phê.
    Xưa bần hàn thường thực hoát lê,
    Cơn phú quới yểm thân lương vị.

    Nay mới biết phi phi thị thị,
    Xưa không tường thị thị phi phi.
    Hễ có tiền dỉ thị vi phi,
    Bằng không của dỉ phi di thị.

    Nhơn tâm đa hồ mị,
    Thiên địa tất giai tri.
    Lúc ta nghèo nhiều kẻ khinh khi,
    Còn phải chịu tiểu nhi quá hạ.

    Giàu với nghèo dẫu quen cũng lạ,
    Sang với hèn thân thích cũng không ưa.
    Trời kia còn khi nắng khi mưa,
    Người sao khỏi hưng suy bỉ thối.

    Ai cũng muốn vinh vinh quới quới,
    Người cũng ham quới quới vinh vinh.
    Tạm vài câu “hạ thiện tự sinh”,
    Làm sao đặng “kiêu sao toại chí”.

    Ai cũng biết những điều liêm sĩ,
    Ngặt không tiền liêm sĩ với ai.
    Lời tục nói a “Anh Hai”
    Sách kêu rằng: “Phương Khổng”

    Cũng vì gã hại Tào hại Đổng,
    Cũng vì va nghĩa đoạn thân sơ.
    Nghèo không tiền mỗi việc mỗi ngơ,
    Giàu có của càng siêu càng sái.

    Ngô bất thức thế gian quái quái,
    Ngả lai tri thiên hạ đường đường.
    Chữ danh hư tiêu trưởng lẽ thường,
    Câu phú quí bần cùng hữu mạng.

    Hễ đói khó mang câu “lậu hạng”,
    Nếu sang giàu đặng chữ “hiển vang”.
    Dầu ai mưu trí khôn ngoan,
    Cũng khó biết cái nghèo mà tránh lánh.

    Dại có của dại càng bảnh lảnh,
    Khôn không tiền khôn cũng ngất ngô.
    Việc bua quan miệng nói u ơ,
    Bế liêm sĩ lại thêm ngọng liệu.

    Dị bản

    • Luận một bài bần phú
      Luận đôi câu nhơn nghĩa tinh vi
      Kẻ đắc thế, đắc thì
      Người thất thơ thất nghiệp
      Cũng có kẻ cực già đời mãn kiếp
      Cũng có người phong lưu tự bé chí già
      Việc ấy nghĩ chẳng ra
      Chẳng biết đó tự căn hay là tự số
      Cũng có kẻ ở phường ở phố
      Cũng có người sẵn dã lâm bô
      Đã khắp trong chín quận mười đô
      Vì hai chữ phú bần lộn lạo
      Trên lớn tiếng ỷ tiền, ỷ gạo
      Dưới nhỏ hơn vì bởi bần cùng
      Lưng không tiền thì gọi đứa khùng
      Tay cầm bạc nâng niu người trí
      Đã khắc trong luân lý
      Lựa lời phải rằng phi
      Hễ giàu sang thời túc thựu túc y
      Bằng đói khó, bần hàn cơ cẩn
      Bề thê tử, mãn lo sẩn bẩn
      Việc lễ nghi thiếu trước hụt sau
      Lưng có tền việc chậm hoá mau
      Nghèo trước mắt hỏi ai chẳng đặng
      Sao kêu rằng xóm kiến
      Sao lại gọi chòm ong
      Nhiều kẻ ở không xong
      Vụ tài vô vụ nghĩa
      Đừng bắt chước một tay Vương Khải
      Mà đấu phú làm chi
      Giàu Thạch Sùng giàu thị phi vi
      Khó Tăng Tử khó còn có tiếng
      Rất đỗi kiệm là người Tử Yến
      Áo hồ cầu tam thập dư niên
      Sao không sống thành tiên
      Thác làm cho mất kiếp
      Sách có chữ bá niên lưu sự nghiệp
      Lại có câu tận thị hồ không
      Còn chi nữa mà mong
      Còn chi đâu mà đợi
      Sao không làm chút nhơn để lợi
      Cho thiên hạ họ nhắc đời!

  • Bình luận

Cùng thể loại:

Chú thích

  1. Thảo
    Viết ra.
  2. Nghĩa nhân
    Cũng viết nhân nghĩa, nghĩa là "lòng yêu thương người (nhân) và biết làm điều phải (nghĩa)." Hiểu rộng là đạo nghĩa sống ở đời.
  3. Đắc thời đắc lễ đắc nghi
    Được thời thì được lễ nghi (chữ Hán).
  4. Thất thế
    Mất thế lực, mất chỗ tựa. Từ chữ Hán thất 失 (mất) và thế 勢 (thế lực).
  5. Thất nghiệp
    Không có nghề nghiệp, việc làm.
  6. Mãn kiếp
    Suốt đời, cho đến tận lúc chết (thường nói về việc không hay).
  7. Phong lưu
    Ngọn gió bay (phong), dòng nước chảy (lưu). Từ này vốn nghĩa là phẩm cách, tinh thần riêng của mỗi người, hiểu rộng ra là sung sướng, vui với cảnh, không phải chịu buồn khổ.

    Cõi trần thế nhân sinh là khách cả
    Nợ phong lưu kẻ giả có người vay

    (Nợ phong lưu - Nguyễn Công Trứ)

  8. Chí
    Đến, kéo dài cho đến (từ Hán Việt).
  9. Căn
    Gốc rễ (chữ Hán). Khái niệm căn thường được gặp trong lí thuyết Phật giáo, chỉ những điều căn bản, gốc rễ của nhận thức, sự việc.

    Thiện căn ở tại lòng ta
    Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
    (Truyện Kiều)

  10. Số kiếp
    Vận mệnh của một đời người.
  11. Lâm bô
    Có nguồn gốc từ danh từ limbo trong tiếng Bồ Đào Nha, có nghĩa là một nơi giam cầm các linh hồn hay đang ở vào một tình trạng nào đó dang dở.
  12. Cửu
    Số chín, thứ chín (từ Hán Việt)
  13. Lợn lạo
    Có thể là cách đọc trại đi của từ lộn lạo.
  14. Bần
    Nghèo (từ Hán Việt).
  15. Luân lý
    Hệ thống đạo đức của xã hội loài người, bao gồm hững qui tắc ứng xử, những tập tục, những giá trị phổ quát được công nhận ở trong một xã hội hay một nền văn hóa nào đó để giúp cho người ta biết phân biệt đúng sai.
  16. Túc thực túc y
    Đủ ăn đủ mặc (chữ Hán).
  17. Bần hàn cơ cẩn
    Nghèo khó, đói rét (bần: nghèo, hàn: lạnh, : đói, cẩn: mất mùa).
  18. Thê tử
    Vợ con (từ Hán-Việt).
  19. Mảng
    Mải, mê mải (từ cũ).
  20. Nhàn
    Có ít hoặc không có việc gì phải làm, phải lo nghĩ
  21. Sơn lâm
    Núi rừng (từ Hán Việt). Cũng nói san lâm hoặc lâm san.
  22. Vương Khải
    Quan Hậu tướng quân nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, em của Văn Minh hoàng hậu, nhà rất giàu có, ăn chơi xa xỉ. Ông và Thạch Sùng từng có cuộc thi xem nhà ai có nhiều của báu hơn. Ở Nam Bộ, tên ông này cũng được phát âm thành Dương Khởi.
  23. Thạch Sùng
    Tên một vị quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là nhân vật xa hoa giàu có đương thời. Giữa ông và Vương Khải từng có cuộc thi xem nhà ai giàu có hơn. Cũng vì gia sản này mà Thạch Sùng gặp tai họa, bị triều thần chém chết năm 52 tuổi.

    Trong kho tàng cổ tích Việt Nam có truyện Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho, theo đó Thạch Sùng là một phú hộ giàu có, tự đắc rằng nhà không thiếu thứ gì. Vương Khải cược với Thạch Sùng toàn bộ gia sản, cuối cùng khi đòi đến mẻ kho thì Thạch Sùng không có, đành chịu mất hết cơ nghiệp. Ông chết hoá thành con thạch sùng, suốt ngày chắc lưỡi tiếc của.

  24. Thị phi
    Phải và không phải. Chỉ sự đồn đại, chê bai.

    Kẻ yêu nên ít lời cao hạ,
    Người ghét càng nhiều tiếng thị phi.

    (Than thân - Nguyễn Hữu Chỉnh)

  25. Tăng Tử
    Tên thật là Tăng Sâm (曾参), tự Tử Dư, một trong những học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử. Ông làm ra sách Đại học gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia (cùng với Trung dung, Luận ngữMạnh Tử). Tăng Sâm cũng nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền khi mẹ ông cắn ngón tay thì ông cảm thấy đau quặn trong lòng.

    Tượng Tăm Sâm và mẹ

    Tượng Tăng Sâm và mẹ

  26. Tam thập dư niên
    Hơn ba mươi năm.
  27. Thác
    Chết, mất, qua đời (từ Hán Việt).
  28. Ngỡi
    Tiếng địa phương Nam Bộ của "ngãi" (nghĩa, tình nghĩa).
  29. Thiên hạ
    Toàn bộ mọi vật, mọi người. Đây là một khái niệm có gốc từ Trung Quốc (thiên 天 (trời) hạ 下 (ở dưới), nghĩa đen là "dưới gầm trời").

    "Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ." (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân)

  30. Đà
    Đã (từ cổ, phương ngữ).
  31. Quẻ
    Dấu hiệu trong bói toán, cầu khấn, từ đó có thể đoán ra điều lành dữ, may rủi, theo thuật bói toán.
  32. Phú quý
    Giàu có và sang trọng (từ Hán Việt).
  33. Phú
    Giàu (từ Hán Việt).
  34. Nhơn
    Nhân (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  35. Thì
    Thời, lúc.
  36. Tự
    Tại, bởi vì (từ cổ).
  37. Dựa dẫm, cậy thế.
  38. Đặng
    Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
  39. Không có (từ Hán Việt)
  40. Ngư lương
    Chỗ đắp bờ để nuôi cá (từ Hán Việt).
  41. Tử hổ
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Tử hổ, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  42. Cá nục
    Một loại cá biển, có rất nhiều ở các vùng biển miền Trung. Cá nục được dùng làm nguyên liệu chính cho nhiều món ăn ngon như cá nục sốt cà, cá nục kho, cá nục hấp cuốn bánh tráng...

    Cá nục

    Cá nục

  43. Cá úc
    Một loài cá da trơn, chủ yếu sống ngoài biển, một số sống trong môi trường nước lợ hay ngọt, thường thấy ở khu vực ôn đới ấm và nhiệt đới. Cá úc được chế biến thành nhiều món đặc sản Nam Bộ.

    Cá úc

    Cá úc

  44. Cá thơm
    Một loại cá nước ngọt có nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long.
  45. Cá thác lác
    Cũng gọi là cá thát lát hoặc cá phác lác, một loại cá nước ngọt rất thường gặp ở Trung và Nam Bộ, đặc biệt là Tây Nam Bộ. Cá thường được đánh bắt để làm chả cá thác lác - một đặc sản nổi tiếng - và các món ngon khác như lẩu cá, muối sả ớt, canh...

    Cá thác lác

    Cá thác lác

  46. Cá cơm
    Cũng gọi là cá duội (ruội) hay cá chi, một loại cá biển phổ biến ở Việt Nam, có thể chế biến thành các món ăn, phơi làm khô cá, hoặc làm nước mắm.

    Cá cơm

    Cá cơm

  47. Cá ngát
    Một loại cá sống ở biển và những vùng nước lợ, có da trơn, thân hình giống như con cá trê, đầu to có râu và hai chiếc ngạnh sắc nhọn hai bên, thân dài đuôi dẹt. Cá ngát khi đã trưởng thành thường to bằng cán dao đến cổ tay người lớn. Ngư dân đánh bắt cá ngát bằng cách giăng lưới hoặc câu nhưng hiệu quả nhất là giăng lưới ở những luồng nước đục, chảy nhẹ vì chỗ này thường có nhiều cá. Cá ngát có thể chế biến thành nhiều loại thức ăn, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ vẫn là món canh chua cá ngát.

    Canh chua cá ngát

    Canh chua cá ngát

  48. Cá bã trầu
    Một loại cá biển thân dẹp, vẩy có màu hồng nhạt, mắt to. Cá cho thịt mềm, rất ngọt, được chế biến nhiều món ngon như nướng, chiên, nấu canh chua... Tùy vùng miền mà loại cá này có những cái tên khác nhau như cá thóc, cá mắt kiếng, cá trao tráo (hai tên sau có lẽ là dựa vào đặc điểm của mắt cá).

    Cá bã trầu

    Cá bã trầu

  49. Nhài
    Còn gọi là lài, loại cây nhỏ có hoa màu trắng rất thơm. Nhân dân ta thường dùng hoa lài để ướp trà.

    Bông hoa nhài

    Bông hoa lài (nhài)

  50. Mẫu đơn
    Một loại cây sống lâu năm, cho hoa rất to, đường kính đạt tới 15-20 cm, màu đỏ, tím hoặc trắng, mùi thơm gần giống mùi thơm của hoa hồng, do vậy hay được trồng làm cảnh. Theo y học cổ truyền, bộ phận dùng làm thuốc là vỏ rễ phơi hay sấy khô, gọi là mẫu đơn bì. Mẫu đơn còn được gọi là hoa phú quý, hoa vương, thiên hương quốc sắc...

    Hoa mẫu đơn

    Hoa mẫu đơn

  51. Hải đường
    Loài cây nhỡ, sống nhiều năm, họ Chè. Lá dài, dày, mặt trên bóng, mép có nhiều răng cưa. Hoa mọc từ 1 đến 3 đóa ở gần ngọn cây, ngọn cành; hoa có cuống dài, tràng hoa đỏ tía, nhiều nhị đực. Hoa nở vào dịp Tết Âm lịch, đẹp nhưng không thơm.

    Hoa hải đường

    Hoa hải đường

  52. Dã quỳ
    Còn có tên là cúc quỳ, sơn quỳ hoặc hướng dương dại, một loại cây cho hoa màu vàng mọc nhiều ở các khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới. Ở nước ta, dã quỳ được người Pháp đưa vào các đồn điền ở Lâm Đồng, sau dần mọc hoang khắp các tỉnh Tây Nguyên.

    Hoa quỳ

    Hoa quỳ

  53. Liễu
    Một loại cây thân nhỏ, lá rủ. Liễu xuất hiện rất nhiều trong thơ ca Á Đông, và thường tượng trưng cho người con gái chân yếu tay mềm.

    Liễu rủ bên hồ Gươm

    Liễu rủ bên hồ Gươm

  54. Phù dung
    Còn gọi là mộc phù dung, địa phù dung, mộc liên, loại cây thân nhỡ có hoa, lá có năm cánh, hoa lớn, có hai loại là hoa đơn và hoa kép, hoa nở xòe to bằng cái bát, chất cánh xốp, trông như hoa giấy. Hoa thay đổi màu sắc từ sáng đến chiều (sáng trắng, trưa hồng, chiều đỏ).

    Hoa phù dung

    Hoa phù dung

  55. Câu này có lẽ lấy ý từ hai câu thơ của Thôi Hộ thời Đường:

    Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
    Đào hoa y cựu tiếu đông phong

    Dịch:

    Mặt người giờ ở nơi nao?
    Hoa đào vẫn đó cười chào gió đông.

  56. Mo
    Phần vỏ ngoài của hoa dừa hay hoa cau. Khi hoa còn non chưa nở, mo màu xanh, hai cánh dạng thuyền úp lại che chở cho hoa bên trong. Mo tự tách ra khi hoa nở và khô dần đi khi cây đậu quả. Mo cau, mo dừa già sẽ tự rụng xuống hoặc được người trồng giật xuống khi thu hái quả. Mo cau mềm mại, dẻo dai, được dân ta sử dụng để gói giò (chả) và nhất là gói cơm nắm mang theo khi làm đồng làm rẫy. Cơm nắm mo cau là một hình ảnh quen thuộc và thân thương với người nông dân nước ta.

    Mo cau

    Mo cau

    Cơm nắm gói trong mo cau.

    Cơm nắm gói trong mo cau.

  57. Bánh in
    Một loại bánh có xuất xứ từ Huế, được làm từ bột năng, bột nếp, đậu xanh, đường, các nguyên liệu khác và được ép, đức thành khuôn mặt đáy của bánh thường khắc các hình chữ Phúc, Lộc, Thọ hoặc các hình trang trí khác và gói trong giấy bóng kính ngũ sắc. Đây là loại bánh để dùng trong ngày Tết, phục vụ việc thờ cúng và đãi khách.

    Bánh in

    Bánh in

  58. Bánh bàng
    Một loại bánh làm từ bột mì, đường, và trứng, được nướng xốp, mặt vàng, gần giống bánh ga-tô, có hình dáng giống quả bàng,

     

  59. Bánh bò
    Một loại bánh làm bằng bột gạo, nước, đường và men, một số nơi còn cho thêm dừa nạo. Có một số loại bánh bò khác nhau tùy vùng miền, ví dụ Sóc Trăng có bánh bò bông, Châu Đốc có bánh bò thốt nốt...

    Bánh bò

    Bánh bò

  60. Bánh ít
    Loại bánh dẻo làm bằng bột nếp, có mặt ở nhiều địa phương, có nơi gọi là bánh ếch hay bánh ết. Tùy theo từng vùng mà bánh ít có hình dạng và mùi vị khác nhau: hình vuông, hình tháp, hình trụ dài, gói lá chuối, lá dứa, không nhân, nhân mặn, nhân ngọt... Bánh ít là món bánh không thể thiếu trong các dịp lễ Tết, giỗ cúng.

    Bánh ít lá gai

    Bánh ít lá gai

    Bánh ít trần

    Bánh ít trần

  61. Mít nghệ
    Một loại mít có múi to, dày, ráo, độ ngọt vừa phải, màu vàng đậm, có thể ăn tươi hoặc làm mít sấy.

    Mít nghệ

    Mít nghệ

  62. Bánh đúc
    Bánh nấu bằng bột gạo tẻ hoặc bột ngô quấy với nước vôi trong, khi chín đổ ra cho đông thành tảng, thường được ăn kèm với mắm tôm. Bánh đúc là món quà quen thuộc của làng quê.

    Bánh đúc Hà Nội

    Bánh đúc Hà Nội

  63. Bánh ít lá gai
    Gọi tắt là bánh gai, một loại bánh ít đặc sản của miền Trung. Bánh làm từ lá gai quết nhuyễn với bột dẻo, tạo cho lớp áo ngoài của bánh có màu xanh đen đặc trưng. Nhưn (nhân) bánh thường là đậu xanh, dừa, đường, thêm chút quế và vani để tạo mùi thơm; đôi khi người ta cũng làm nhân bánh từ tôm xào với thịt, tạo ra món bánh ít mặn.

    Lá gai

    Lá gai

    Bánh ít lá gai

    Bánh ít lá gai

  64. Bánh bèo
    Một món bánh rất phổ biến ở miền Trung và miền Nam. Bánh làm từ bột gạo, có nhân phía trên mặt bánh làm bằng tôm xay nhuyễn. Nước chấm bánh bèo làm từ nước mắm, và thường đổ trực tiếp vào bánh chứ không cần chấm. Thành phần phụ của bánh bèo thường là mỡ hành, đậu phộng rang giã nhỏ. Tuỳ theo địa phương, có những cách thêm bớt khác nhau cho món bánh này, ví dụ ở Sài Gòn thường bỏ đậu xanh, đồ chua, lại cho ăn kèm bánh đúc, bánh ít, bánh bột lọc...

    Bánh bèo

    Bánh bèo

  65. Kơ nia
    Người Kinh gọi là cây cầy hoặc cây cốc, một loại cây gỗ cứng mọc nhiều ở các tỉnh Tây Nguyên, ngoài ra còn phân bố từ Quảng Nam đến một số tỉnh Nam Bộ cũng như các đảo Phú Quốc, Côn Đảo. Cây kơ nia có một ý nghĩa tâm linh rất lớn đối với đồng bào các dân tộc thiểu số.

    Cây kơ nia

    Cây kơ nia

  66. Đồi mồi
    Một loài rùa biển, mai có vân đẹp nên thường bị đánh bắt để làm đồ mĩ nghệ (lược, vòng tay, vòng đeo cổ...). Những đốm nám trên da hoặc trái cây cũng gọi là vết đồi mồi.

    Con đồi mồi

    Con đồi mồi

  67. Giã
    Như từ giã. Chào để rời đi xa.
  68. Giã ơn
    Cảm tạ ơn.

    Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn
    (Nhị Độ Mai)

  69. Dâu tằm
    Loại cây thường được trồng hai bên bờ sông, chủ yếu để lấy lá cho tằm ăn. Lá và rễ dâu cũng là vị thuốc đông y. Quả dâu tằm chín cũng có thể dùng để ăn hoặc ngâm rượu, gọi là rượu dâu tằm. Ở nước ta, dâu có nhiều giống: dâu bầu, dâu da, dâu cỏ, dâu tam bội...

    Lá và quả dâu tằm

    Lá và quả dâu tằm

  70. Tằm
    Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.

    Tằm đang ăn lá dâu

    Tằm đang ăn lá dâu

    Kén tằm

    Kén tằm

  71. Cắn chắt
    Cắn ăn hạt lúa (cho vui miệng hoặc đỡ đói).

    Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt
    cười lia dăm hạt cốm
    giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân

    (Người không về - Hoàng Cầm)

  72. Sam
    Một sinh vật biển thuộc bộ giáp xác. Sam thường đi thành cặp ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái, gọi là đôi sam. Dân gian ta có thành ngữ "thương như sam" hoặc "dính như sam."

    Đôi sam

    Đôi sam

  73. Cha chả
    Thán từ dùng để biểu lộ sự ngạc nhiên (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  74. Trùm
    Người đứng đầu một phường hội thời xưa.

    Nghệ sĩ Minh Nhí trong vai trùm Sò (áo the xanh) trong vở cải lương Ngao Sò Ốc Hến

    Nghệ sĩ Minh Nhí trong vai trùm Sò (áo the xanh) trong vở cải lương Ngao Sò Ốc Hến

  75. Có bản chép: Tôi lại cửa công.
  76. Thuở tạo thiên
    Lúc mới lập ra trời đất.
  77. Đọi
    Cái chén, cái bát (phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ).
  78. Thời
    Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
  79. Nguyệt hoa
    Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.

    Cởi tình ra đếm, ra đong
    Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?

    (Tơ xuân - Huy Trụ)

  80. Bánh hạt sen
    Gọi tắt là bánh sen, một số nơi gọi là kẹo hạt sen, loại bánh ngọt làm bằng bột vo nhỏ như hạt sen, ngoài bọc bằng giấy bóng kính nhiều màu. Bánh thường gặp trong dịp Tết nguyên đán.

    Bánh hạt sen

    Bánh hạt sen

  81. Bánh cam
    Một loại bánh hình tròn nhìn giống quả cam, làm bằng bột nếp, nhân đậu xanh, bên ngoài phủ nhiều mè (vừng), được rán trong dầu, ăn rất ngọt và thơm. Bánh cam được bán nhiều ở các chợ và hàng rong, là một món quà mà trẻ em rất ưa thích. Miền Bắc gọi bánh này là bánh rán, ở một số địa phương miền Trung thì gọi là bánh ram.

    Bánh cam

    Bánh cam

  82. Bánh tét
    Có nơi gọi là bánh đòn, một loại bánh của miền Trung và miền Nam, tương tự như bánh chưng ở miền Bắc. Bánh làm bằng gạo nếp, hình trụ dài, gói bằng lá chuối, có thể có nhân đậu và thịt mỡ hoặc không có nhân, khi ăn thì cắt thành khoanh tròn. Những dịp giỗ Tết không thể thiếu món bánh này.

    Một dĩa bánh tét

    Một dĩa bánh tét

  83. Hủ lậu
    Cũ kĩ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa.
  84. Bánh tổ
    Một loại bánh tết truyền thống của Quảng Nam. Bánh được chế biến từ nếp và đường, đựng trong những cái "rọ" bằng lá chuối. Bánh dẻo, ngọt, có thể cắt ăn ngay hoặc chiên giòn.

    Bánh tổ

    Bánh tổ

  85. Tu hú
    Một loài chim có kích cỡ khá lớn, ăn quả và côn trùng, có tiếng kêu to dễ phân biệt. Chúng là chim đẻ nhờ, đẻ trứng của mình vào tổ của các loài chim khác, đặc biệt vào tổ của các loài chim dạng sẻ.

    Chim tu hú

    Chim tu hú

  86. Ác là
    Còn có tên là bồ các, một loại chim lớn (có thể dài từ 40-50 cm) có đầu, cổ và ngực màu đen bóng, bụng và vai màu trắng. Ác là loài ăn tạp, chúng có thể ăn từ chim non tới trứng, thú, sâu bọ nhỏ, hạt ngũ cốc và nhiều thứ khác. Có lẽ vì vậy trong ca dao dân ca, ác là thường tượng trưng cho điều xấu hoặc những kẻ độc ác. Tuy nhiên trong văn hóa Trung Quốc, ác là lại có tên là hỉ thước, tượng trưng cho điềm lành.

    Bồ các (ác là)

    Ác là

  87. Chích chòe
    Tên chung của một số loài chim nhỏ, đuôi dài, ăn sâu bọ. Các loại chính chòe thường gặp là chích chòe than (lông màu đen, có đốm trắng), chích chòe lửa (có bụng màu gạch đỏ như lửa), chích chòe đất... Hiện nay chích chòe thường được nuôi làm cảnh.

    Chích chòe lửa

    Chích chòe lửa

  88. Bìm bịp
    Tên chung để chỉ khoảng 30 loài chim do tiếng kêu của chúng tương tự như "bìm bịp" vào mùa sinh sản. Bìm bịp có lông cánh màu nâu như áo của thầy tu.

    Một con bìm bịp

    Một con bìm bịp

  89. Một loài chim ăn thịt, thường kiếm mồi vào ban đêm, có mắt lớn ở phía trước đầu. Người xưa xem cú là loài vật xấu xa, tượng trưng cho những người hoặc việc xấu, việc xui xẻo.

    Cú mèo

    Cú mèo

  90. Diều hâu
    Loài chim dữ, mỏ quặp, có thị lực rất sắc bén, hay bắt gà, chuột, rắn.

    Một loại diều hâu

    Một loại diều hâu

  91. Sáo
    Tên chung của một số loài chim nhỏ, có bộ lông sẫm màu, thường sống trong các hốc, lỗ, và đẻ trứng có vỏ màu xanh lam hoặc trắng. Vài loài sáo có khả năng bắt chước tiếng người, nên thường được nuôi làm chim cảnh.

    Chim sáo

    Chim sáo

  92. Vóc
    Thơm ngon (từ gốc Hán).
  93. Công đường
    Nơi quan trường dưới chế độ phong kiến. Người Nam Bộ cũng gọi chữ này là công đàng.