Ca dao Mẹ

  • Vè cậu Hai Miêng

    Đêm thu bóng nguyệt soi mành
    Bâng khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga
    Xét trong thế sự người ta
    Tài ba cho mấy cũng là như không
    Cho hay thiên địa chí công
    Dữ lành báo ứng vô cùng màu linh
    Gương xưa trông thấy đành rành
    Người nay xem đó giữ mình cho yên
    Nam Kỳ có cậu Hai Miêng
    Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công
    Cậu Hai là bực anh hùng
    Ăn chơi đúng bực vô cùng liệt oanh
    Nam Kỳ lục tỉnh nổi danh
    Thật là một bực hùng anh trên đời
    Tuổi nay gần mới ba mươi
    Tánh tình hào hiệp ít người dám đương
    Thương người thất thế lỡ đường
    Thương người trung chánh ghét phường tà gian
    Cậu Hai tuy thật dọc ngang
    Nhưng mà chánh trực vẹn toàn không sai
    Xóm làng lớn nhỏ ai ai
    Thảy đều mến tiếng cậu Hai phục tùng
    Những tay xưng bá xưng hùng
    Hễ là gặp cậu ắt không thứ tình
    Ghét người hiếp đáp dân lành
    Ghét người ỷ thế bất bình với dân
    Gò Công khắp chốn xa gần
    Nghe danh của cậu trăm phần nể kiêng
    Cậu Hai vốn bực có quyền
    Quan trên cũng nể cũng kiêng lựa là
    Ngày kia cậu ở trong nhà
    Bảy Danh, Tám Hổ, Ba Ngà đến chơi
    Cậu Hai vội vã mời ngồi
    Cả ba tỏ lại khúc nôi cậu tường
    “Chúng tôi xui xẻo trăm đường
    Hốt me thua sạch vẫn đương lo rầu
    Nghĩ càng tức giận xiết bao
    Chệt Lù nó trúng trước sau ba ngàn
    Chúng tôi buồn bã lòng vàng
    Hết tiền sạch túi lại càng nhuốc nhơ
    Mang danh là điếm thuở giờ
    Để cho người trúng lòng tơ thêm phiền
    Bây giờ đã sạch bạc tiền
    Nghĩ càng tức tối rất nên thảm sầu”
    Cậu Hai nghe hãn đuôi đầu
    Tức thời hỏi lại âm hao cho tàng
    “Chúng bây dại dột rõ ràng
    Cái gì thua tới ba ngàn tức thay”
    Thưa rằng: “Me lạ bữa nay
    Bát tiên ngồi lúng chẳng sai cửa nào
    Chúng tôi chẳng biết làm sao
    Thay cái mới vào hốt cũng bát tiên
    Thiệt là nó trúng liên miên
    Trúng gần mười chén có trên ba ngàn”
    Cậu Hai nghe rõ mọi đàng
    Xét suy trong dạ vội vàng phân ra
    “Chúng bây chớ có thiết tha
    Để tao gỡ lại kẻo mà nhơ danh
    Thuở nay ai cũng biết mình
    Điếm đàng ai lại dễ dàng thua ai
    Chệt Lù bây gọi đến đây
    Đặng tao tính một việc này gỡ cho
    Kẻo mà mang nhuốc mang nhơ
    Thua tiền mà chúng gọi khờ mới đau”
    Ba người nghe hãn âm hao
    Lòng mừng khấp khởi mau mau đi liền
    Chệt Lù nay trúng nhiều tiền
    Về nhà vích đốc rất nên thỏa lòng
    Chẳng dè nghe rõ đục trong
    Cậu Hai Miêng gọi chẳng thông sự gì
    Vội vàng xách áo ra đi
    Đến nhà hỏi cậu kêu chi cho tàng
    Bước vào nơi chốn gia trang
    Cậu Hai bèn hỏi mọi đàng thấp cao
    “Nghe mày nay đã làm giàu
    Trúng me nhiều quá trước sau ba ngàn
    Thôi đừng có bụng tham lam
    Hốt cái tao đánh vài ngàn giải khuây”
    Chệt Lù nghe rõ vắn dài
    Vốn nó đã biết cậu Hai thuở giờ
    Cậu đã biểu, há dám ngơ
    Tức thì thưa lại so đo sự tình
    “Cậu Hai khá xét hắc minh
    Tôi thua cả tháng thảm tình xiết bao
    Thật là chẳng phải ít đâu
    Gần một muôn bạc dám nào nói sai
    Tôi chỉ gỡ lại hôm nay
    Có ba ngàn mấy như vầy đủ đâu
    Xin cậu khá tưởng lòng nhau
    Như cậu có túng tôi nào tiếc chi
    Vài trăm dưng cậu tức thì
    Thôi đừng hốt đánh làm gì mắc công”
    Cậu Hai nghe hãn đục trong
    Trợn mắt bèn tỏ thủy chung sự tình
    “Tao không phải túng mà xin
    Đánh chơi mi có ưng đành hay không?”
    Chệt Lù nghe sợ vô cùng
    Thưa rằng: “Cậu biểu há không vưng lời”
    Cậu Hai bèn nói tức thời
    “Hốt bao nhiêu vốn vậy ngươi khá bày”
    Đáp rằng: “Tự ý cậu Hai
    Hốt bao nhiêu vốn tôi đây vui lòng”
    Cậu rằng: “Tao đã định xong
    Hốt ba ngàn vốn mựa đừng ít hơn”
    Chệt Lù nghe hãn thiệt hơn
    Vui lòng ưng thuận chẳng còn nói chi
    Cậu Hai liền biểu hốt đi
    Giữa nhà bài bạc xiết chi vui vầy
    Sòng me mua khóc đã vầy
    Tai con hốt cái có ngoài hai mươi
    Cậu Hai xem chén một hồi
    Cậu âu cửa lượng tức thời tám trăm
    Khi ra cửa lượng mừng thầm
    Cậu Hai đã trúng thỏa tâm vô hồi
    Thua qua trúng lại một hồi
    Cậu Hai chén chót đặng thôi ba ngàn
    Cậu đặt cửa túc rõ ràng
    Khui ra cửa túc lòng vàng mừng vui
    Sau khi cái hết tiền rồi
    Cậu Hai tính lại vậy thời mừng thay
    Cậu ăn hơn bốn ngàn hai
    Chệt Lù hết túi tức thay trong lòng
    Nhưng mà cam chịu cho xong
    Nếu nói láng cháng ắt không còn hồn
    Cậu Hai toại bấy lòng son
    Xuất ba ngàn bạc chẳng còn tiếc chi
    Trả cho ba kẻ tức thì
    Ba người vui vẻ khác gì lên mây
    Thảy đều cám nghĩa cậu Hai
    Thưa rằng: “Ơn nghĩa sánh tày biển sông
    Nếu cậu chẳng tưởng tấm lòng
    Chúng tôi chắc phải vô cùng hiểm nguy
    Ân này chí quyết tạc ghi
    Ngàn ngày cũng nhớ dễ gì lạt phai”
    Ba người từ tạ cậu Hai
    Dẫn nhau ra chợ bạc bài vui chơi
    Nửa năm lễ đã đến rồi
    Nhơn dân trong hạt vô cùng vầy vui
    Nào là bông vụ đông người
    Nào là lúc lắc, kẻ thời bầu cua
    Vui chơi từ sớm đến trưa
    Bài cào, tứ sắc cũng đua chơi bời
    Có tên Hương Quản hiện thời
    Thấy dân bài bạc lòng người ghét thay
    Phân rằng phải dẹp lũ này
    Nếu mà để nó bạc bài thất công
    Ỷ mình chức phận hành hung
    Cầm roi cá đuối quyết không vị tình
    Dạo cùng khắp chợ khắp thành
    Hễ thấy bài bạc bất bình la vang
    Cầm roi Hương Quản đến càng
    Đánh người không kể nguy nan là gì
    Thảm thay mấy đứa hài nhi
    Hương Quản cũng đánh khác gì đánh trâu
    Đàn bà đang bấu cùng nhau
    Đánh bài tứ sắc vốn nào có hay
    Gặp cậu Hương Quản ra tay
    Áp vào đánh đại thảm thay đàn bà
    Bảy Thẹo thấy vậy bước ra
    Phân cùng Hương Quản gần xa sự tình
    “Cậu đừng ỷ thế bất bình
    Chuyện chi cậu đánh dạ đành hung hăng
    Thật cậu ngang dọc vô ngần
    Cậu đừng ỷ thị cấm ngăn đánh người”
    Hương Quản nghe rõ mấy lời
    Trong lòng thêm giận tức thì hỏi qua
    “Tao đánh mi làm chi ta
    Nếu mày láng cháng ắt là ngồi trăng
    Bảy Thẹo tức giận vô ngần
    “Chuyện chi mà phải ngồi trăng dọa người”
    Hương Quảng bước đến tức thì
    “Nếu mày nói nữa bỏ đời mày đi”
    Bảy Thẹo trong dạ xét suy
    Thằng này phách lối dễ gì nhịn sao
    Thôi tao chẳng nói thấp cao
    Hễ có người trị ngày sau mới chừa
    Bảy Thẹo không nói hơn thua
    Hương Quản thấy vậy rất vừa lòng thay
    Thầm rằng: “Nó biết sợ oai
    Nếu không nó gặp ta đây chẳng còn”
    Bảy Thẹo tức giận chi hơn
    Vội vàng chổi bước dời chơn đi liền
    Bảy Thẹo kiếm cậu Hai Miêng
    Cậu đang uống rượu sạ duyên nào tàng
    Cậu đang ngồi tại nhà hàng
    Chung quanh bằng hữu điếm đàng rất đông
    Bảy Thẹo chưa tỏ đục trong
    Cậu Hai bèn hỏi thủy chung sự tình
    “Chuyện chi xem bộ bất bình
    Mặt mày mầy lại tái xanh như vầy?”
    Bảy Thẹo thưa với cậu Hai
    “Cậu xem Hương Quản còn ai mà bằng
    Dọc ngang ỷ thị vô ngần
    Nó muốn sanh sự khó khăn vô cùng
    Xách roi cá đuối hành hung
    Đánh người bài bạc nó không vị tình
    Bà già bị đánh thảm tình
    Con nít nó cũng chẳng đành dung tha
    Làm cho thiên hạ gần xa
    Đang khi vui vẻ hóa ra sự buồn
    Thảy đều kinh sợ phi thường
    Bạc bài dẹp hết trăm đường uế thay
    Đang khi làng chợ vui vầy
    Cũng bị Hương Quản bạc bài hăm he”
    Cậu Hai trong đục đã nghe
    Phân rằng: “Hương Quản trăm bề hung hăng
    Nó thật phách lối vô ngằn
    Gặp tao thì nó chẳng an đâu là”
    Bảy Thẹo lời mới thưa qua
    “Nó còn hăm dọa nào là đóng trăng
    Nghĩ càng tức giận vô ngần
    Nó cấm bài bạc thì còn vui chi
    Vậy xin cậu khá xét suy
    Nếu mà để vậy nó khi chúng mình”
    Cậu Hai nghe rõ hắc minh
    Trong dạ bất bình lời mới phân qua
    “Mày đừng buồn bã thiết tha
    Mày ra ngoài chợ gần xa giãi bày
    Rao cho lớn nhỏ đặng hay
    Cứ việc bạc bài cứ việc vui chơi
    Nói tao đây biểu các người
    Thì là cứ việc vầy vui bạc bài
    Chuyện chi thì có tao đây
    Lịnh tao biểu vậy thì mày đi đi”
    Bảy Thẹo mừng rỡ xiết chi
    Vội vàng chổi gót tức thì bước ra
    Đến chợ kêu hết người ta
    Điếm đàng đủ mặt phân qua như vầy
    “Hương Quản tuy cấm bạc bài
    Nhưng mà có lịnh cậu Hai đã truyền
    Chúng ta cứ việc lòng yên
    Gầy sòng chơi lại chẳng thèm sợ ai
    Bởi vì có lịnh cậu Hai
    Dẫu cho Hương Quản hoặc ai kể gì”
    Nghe đà tỏ rõ tường tri
    Thảy đều vui vẻ xiết chi trong lòng
    “Cậu Hai có lịnh thì xong
    Chúng ta cứ việc gầy sòng vui chơi”
    Nói rồi có mấy trăm người
    Bày ra giữa chợ vầy vui bạc bài
    Bảy Thẹo toại dạ lắm thay
    Trông cho Hương Quản đến đây ỷ quyền
    Hương Quản nghe tiếng Hai Miêng
    Nhưng chưa biết mặt dữ hiền ra sao
    Nhưng ỷ mình võ nghệ cao
    Lại thêm quyền chức ai nào dám đương
    Cầm roi đi dạo khắp đường
    Trông thấy thiên hạ vẫn đương gầy sòng
    Hương Quản càng tức vô cùng
    Xốc vào quyết dạ hành hung đánh người
    Bảy Thẹo bước đến tức thời
    Vội vàng bày tỏ khúc nôi sự tình
    “Chú đừng ỷ thế quyền mình
    Cậu không phép đánh dân làng vầy đâu”
    Hương Quản giận mặt đỏ au
    Rằng: “Mày chớ khá cản tao làm gì
    Bạc bài giữa chợ dễ gì
    Dầu tao đánh chết làm chi mà phòng”
    Bảy Thẹo phân lại đục trong
    “Cậu Hai cho phép gầy sòng vui chơi
    Chú đừng ỷ thị đánh người
    Nói cho chú biết đầu đuôi sự tình”
    Hương Quản chi xiết bất bình
    Rằng: “Ta chẳng biết tánh danh cậu nào
    Làng này vốn ở quyền tao
    Cậu Hai thây kệ ta đâu kể màng”
    Nói vừa dứt tiếng đánh càng
    Làm cho thiên hạ kinh hoàng chạy dông
    Cậu Hai nghe hãn đục trong
    Tức thì chạy đến thủy chung hỏi rằng
    “Chú này ngang ngược vô ngần
    Sao chú dám đánh người đang vui vầy?”
    Hương Quản bèn nói lời này
    “Còn mày lại dám cản đây làm gì
    Không tường mày đó là ai
    Giấy thuế thân khá trình bày xem coi”
    Cậu Hai nghe vậy liền cười
    “Mày muốn mất chức vậy thời không sai”
    Hương Quản nạt nộ cậu Hai
    Lại toan bước đến bạt tai chẳng nhường
    Cậu Hai tức giận trăm đường
    Dằn hoài không đặng há nhường hay sao
    Nói rồi ra sức anh hào
    Đánh chú Hương Quản dễ nào thứ dung
    Hương Quản cũng giận vô cùng
    Ỷ mình võ nghệ quyết không chịu nhường
    Hai người nỗ lực cự đương
    Đánh nhau kịch liệt đánh luôn nửa giờ
    Hương Quản trong dạ hơi lo
    Quả thật không ngờ người thật hùng anh
    Cậu Hai lui tới rất lanh
    Đá chú Hương Quản trúng mình nhào lăn
    Hương Quản kinh sợ vô ngần
    Chắc là phải chết khó an thân mình
    Cậu Hai chưa dứt lôi đình
    Nhảy đến đánh nữa tử sanh kể gì
    Hương Quản phách lạc hồn phi
    Thưa rằng: “Thứ mạng ân ghi đến già”
    Cậu Hai thấy vậy buông ra
    “Nói cho mày biết tao là Hai Miêng”
    Hương Quản chừ mới nể kiêng
    Đâm đầu chạy tuốt rất nên sảng hoàng
    Cậu Hai thấy vậy cười vang
    Thầm rằng như vậy cũng rằng hùng anh
    Cậu Hai chi biết bất bình
    Nhưng mà thấy vậy cũng đành nới tay
    Thiên hạ tựu lại đông đầy
    Xúm nhau chào hỏi cậu Hai thỏa lòng
    Rằng: “Chú Hương Quản dữ hung
    Nay gặp tay cậu mới không ỷ mình”
    Cậu Hai lời mới trần tình
    “Chúng bây tua khá giữ mình về sau
    Hương Quản võ nghệ cũng cao
    Không tao tưởng chẳng kẻ nào dám đương”
    Điếm đàng thưa lại mọi đường
    “Trông thấy nó đánh cũng tường nghề hay”
    Cậu Hai lời mới tỏ bày
    “Chúng bây cứ việc bạc bài vui chơi
    Chuyện chi tao chịu cho ngươi
    Cứ việc chơi bời trối kệ mặc ai”
    Điếm đàng nghe nói mừng thay
    Chắc là thỏa dạ từ rày sấp lên
    Xiết bao nhiêu nỗi thỏa nguyền
    Điếm đàng được dịp kiếm tiền mừng thay
    Toại lòng phỉ dạ vô hồi
    Cậu Hai ra lịnh trăm người tuân theo
    Từ nay cho đến ban chiều
    Thảy đồng bài bạc thảy đều vui chơi
    Hương Quản này đoạn nhắc người
    Bị cậu Hai đánh vô hồi xấu xa
    Lại thêm trước mặt người ta
    Còn chi danh tiếng thật là hổ hang
    Bị cậu Hai đánh bò càng
    Chạy về gia nội nghĩ càng nhơ danh
    Trong lòng chi xiết bất bình
    Tính thầm trong bụng chẳng đành chịu thua
    Tính toan từ sớm đến trưa
    Trong lòng bứt rứt xót chua vô hồi
    Như vầy miệng thế chê cười
    Làm sao rửa nhục vậy thời mới an
    Nghĩ càng tức bấy lòng vàng
    Nghĩ càng chua xót dạ càng thảm thê
    Xấu xa hổ thẹn trăm bề
    Mình người chức việc chẳng hề thua ai
    Bây giờ chịu xấu như vầy
    Muôn ngày thẹn nhục lòng này sao an
    Nghĩ thôi đau đớn đoạn tràng
    Nghĩ thôi bứt rứt gan vàng nào yên
    Căm hờn thay cậu Hai Miêng
    Trả thù cho đặng vẹn tuyền mới an
    Âu là cậy sức của làng
    Hoặc là trừ mới được chàng mà thôi
    Hương Quản bị đánh sớm mơi
    Mặt mày xưng bấy vô hồi thiết tha
    Lại thêm tức ngực thay là
    Bước đi không vững lựa là đánh ai
    Nhà làng liền bước đến ngay
    Hương Quản xụ mặt châu mày bước vô
    Thật là hổ thẹn nhuốc nhơ
    Nhưng mà phải chịu phòng lo báo thù
    Chú Xã ông Cả đương ngồi
    Hương thân, Hương chánh đang hồi bàn nhau
    Hương Quản chừ mới bước vào
    Các ông hương chức xiết bao lạ lùng
    Tức thì hỏi lại đục trong
    “Chuyện chi mà lại xem chừng khổ nguy
    Khá tua nói lại tường tri
    Mặt mày xem chẳng khác gì chú ôn
    Hương Quản nghe hãn thiệt hơn
    Thẹn thùa đỏ mặt chẳng còn thấy ai
    Làm thinh gượng gạo một giây
    Đoạn bèn sự thật giãi bày thấp cao
    “Chúng ta hổ thẹn xiết bao
    Tôi mà như thế xót đau tấm lòng
    Hai Miêng ỷ thế vô cùng
    Đánh tôi mang bịnh e không đặng toàn”
    Chú xã nghe nói hỏi ngang
    “Chuyện chi dữ vậy mau toan giãi bày”
    Hương Quản mới nói lời vầy
    “Cũng vì tôi cấm bạc bài gây ra
    Hai Miêng có lịnh truyền ra
    Biểu người cứ việc hiệp mà vui chơi
    Tôi càng tức giận vô hồi
    Cãi cọ mấy lời nó lại đánh tôi”
    Chú xã nghe nói hỡi ôi!
    “Tưởng ai đâu lạ chớ người tôi thông
    Hai Miêng quả thật anh hùng
    Nhưng mà ngang ngược vô cùng chẳng chơi
    Ngày xưa gã cũng đánh tôi
    Nhưng mà xét lại nhiều người theo va
    Nếu mình gây chuyện thêm ra
    Thì mình thua hắn cũng là uổng công
    Nhưng nay đã đến nước cùng
    Nhục này quả thật nhục chung của làng
    Vậy ta mau khá lên quan
    Thưa hết các việc xem chàng ra sao
    Kẻo mà ỷ sức anh hào
    Hiếp người hiếp chúng kể nào lịnh trên”
    Chú xã bày tỏ sạ duyên
    Đốc chú Hương Quản rất nên lắm lời
    Rằng: “Ta làm hắn đến nơi
    Đặng cho hắn hết khinh người mới nghe
    Chuyện này xấu hổ trăm bề
    Nếu mình bỏ lảng chẳng hề hết nhơ”
    Nghe qua tỏ rõ nguyên do
    Hương Quản bệ tờ thưa tới quan trên
    Tham biện biết cậu Hai Miêng
    Tức thì đòi cậu sạ duyên cho tàng
    Cậu Hai ngồi tại nhà hàng
    Đang khi uống rượu lòng vàng phỉ vui
    Chẳng dè có trát đến nơi
    Lính đòi cậu phải hầu thời quan trên
    Cậu Hai bèn hỏi sạ duyên
    “Chuyện chi đòi hỏi rất nên rộn ràng?”
    Lính rằng: “Vì có lịnh quan
    Sai tôi mời cậu mau sang dinh ngài
    Chuyện chi tôi chẳng có hay
    Sai mời tôi phải đến đây thỉnh mời”
    Cậu Hai nghe nói bèn cười
    “Thôi ngươi về trước thưa người đặng hay
    Rằng ta bận việc lắm thay
    Cho nên từ sớm đến mai rộn ràng
    Khá tua thưa lại thượng quan
    Ngày mai ta rảnh sẽ sang dinh người”
    Tên lính nghe hãn khúc nôi
    Hai Miêng liền tỏ khúc nôi sự tình
    “Thưa cậu đặng rõ hắc minh
    Ngày mai chúa nhựt trong dinh vắng ngài
    Cậu rảnh thì tối hôm nay
    Cậu lên quan lớn giãi bày việc riêng”
    Cậu Hai nghe rõ sự duyên
    Tức thì nói lại cho tên lính làng
    “Nếu như tối có rảnh rang
    Bảy giờ ta đến ngỏ toan viếng người”
    Tên lính mừng rỡ vô hồi
    Vội vàng chào cậu tức thời ra đi
    Cậu Hai chẳng rõ chuyện gì
    Vẫn còn suy xét ngại nghi trong lòng
    Điếm đàng lo lắng không cùng
    Hỏi han cho rõ đục trong thể nào
    Chuyện chi chưa rõ âm hao
    Để cậu lên trển thể nao thì tàng
    Có người lời lại bàn rằng
    “Chắc chuyện Hương Quản rõ ràng không sai”
    Có người lại nói như vầy
    “Chắc việc bạc bài chớ chẳng việc chi”
    Cậu Hai bèn nói tức thì
    “Dầu có chuyện gì gẫm cũng vô can
    Tham biện mời đến dinh lang
    Chẳng qua muốn hỏi cho tàng âm hao
    Chớ không tù rạc chi đâu
    Chúng bây đừng sợ cho tao sự gì”
    Cậu Hai đứng dậy tức thì
    Trả xong tiền rượu rồi đi về nhà
    Bảy giờ tối cậu bước ra
    Lên dinh tham biện xem mà chuyện chi
    Cậu Hai đội nón ra đi
    Trong lòng ngẫm nghĩ chuyện chi nào tàng
    Cậu Hai bước đến dinh lang
    Lính gác trông thấy vội vàng vào trong
    Thưa quan tham biện rõ thông
    Cậu Hai nay đến dinh trung hầu ngài
    Tham biện vui vẻ lắm thay
    Đang khi uống rượu bước ngay ra ngoài
    Cậu Hai trông thấy chào ngài
    Quan lớn bước đến nắm tay mời vào
    Thật là niềm nở xiết bao
    Coi như huynh đệ ngang nhau đồng bàn
    Kéo ghế mời cậu vội vàng
    Kêu bồi đem rượu đãi càng hậu thay
    Sau khi uống rượu một giây
    Cậu Hai bè hỏi cho hay sự tình
    Rằng: “Xin quan lớn phân minh
    Cho đòi tôi đến nơi dinh chuyện gì?
    Vốn tôi tự sự nan tri
    Xin ngài tỏ lại vậy thì đặng hay”
    Quan lớn bèn nói lời này
    “Không chi quan hệ cậu Hai chịu phiền
    Vốn tên Hương Quản làng trên
    Đâm đơn nó kiện Hai Miêng nhiều điều
    Tôi đây rõ biết cậu nhiều
    Lẽ nào tôi chẳng biết điều hay sao
    Cho nên đơn nó đưa vào
    Tôi biểu ký lục mau mau xé liền
    Vốn không có chuyện chi phiền
    Muốn đòi cậu đến sạ duyên giải bày
    Chỉ còn có một điều này
    Chơi việc bạc bài giữa chợ khó thay
    Nhưng mà nếu có cậu Hai
    Xin cậu coi sóc đừng rầy thì thôi
    Muốn chơi thì cứ việc chơi
    Nhưng mà cậu phải trông coi xem chừng
    Vậy cậu mựa chớ buồn lòng
    Chỉ bảo nhiêu đó chớ không chuyện gì”
    Nghe qua tử sự tường tri
    Cậu Hai thưa lại tức thì trước sau
    “Xin ngài khá vị tình nhau
    Việc chơi bài bạc lẽ nào dám ngang
    Nhưng tôi cai trị điếm đàng
    Cho nên chẳng việc rộn ràng xảy ra
    Xin trên ngài chớ lo xa
    Tôi xin lãnh việc thật là không sao
    Nếu có xảy đến chuyện nào
    Tôi chịu trách nhiệm dám đâu sai lời
    Nếu ngài xuống lịnh cho chơi
    Thì tôi đây nguyện trông coi bạc bài
    Tôi xin hứa chắc cùng ngài
    Chuyện chi cứ việc tôi đây làm đầu”
    Tham biện nghe hãn âm hao
    Tức thì phân lại thấp cao sự tình
    “Nếu mà có tiếng cầu xin
    Lẽ nào tôi lại chẳng đành tuân y
    Vậy cậu mựa chớ ngại nghi
    Tôi nay cho phép trong khi lễ này
    Bạc bài chơi nội bảy ngày
    Nghĩa là nội một tuần này mà thôi”
    Cậu Hai nghe rõ rất vui
    “Cám ơn quan lớn tức thời phân qua
    Hương Quản hà hiếp người ta
    Nó đánh con nít đàn bà chẳng dung
    Nó thật một đứa ác hung
    Trong làng có nó vô cùng khó toan
    Xin trên xét lại kỹ càng
    Để nó trong làng nhiều việc xảy ra”
    Tham biện nghe rõ gần xa
    “Rằng nếu nó vậy khó mà thứ dung
    Vậy cậu tua khá an lòng
    Tôi cách chức nó mới xong mọi đàng
    Ngày mai chạy giấy xuống làng
    Cách chức Hương Quản cho an dân lành”
    Cậu Hai nghe rõ thỏa tình
    Giã từ quan lớn ra dinh về nhà
    Điếm đàng trông đợi thay là
    Vừa thấy dạng cậu kéo ra đón đàng
    Xúm nhau tự sự hỏi han
    “Chuyện chi xin khá bày tàng thấp cao?”
    Cậu Hai bèn tỏ âm hao
    “Chẳng chuyện chi hại đến tao mà phòng”
    Tức thì thuật lại đục trong
    Đầu đuôi các việc thủy chung giãi bày
    Điếm đàng vui vẻ lắm thay
    “Có lịnh cờ bạc vui vầy ngày đêm
    Thật là đặng dịp kiếm tiền
    Cũng là nhờ cậu Hai Miêng xin dùm”
    Nhắc qua Hương Quản chưa thông
    Tưởng là kiện vậy trả xong mối thù
    Ở nhà chờ đợi tin coi
    Chắc là sẽ trả đặng cừu nào sai
    Chẳng ngờ vừa được hai ngày
    Có giấy quan lớn mới hay sự tình
    Nào dè nguy khổ thình lình
    Đã bị cách chức thấm tình biết bao
    Trong lòng tức giận máu trào
    Hại người chẳng đặng dè đâu hại mình
    Trong lòng tức ói mật xanh
    Nghe lời chú Xã thâm tình biết bao
    Đến nhà chú Xã bước vào
    Than phiền mọi nỗi đuôi đầu hắc minh
    “Hai Miêng thế lực hơn mình
    Ta toan hại nó lại thành hại ta
    Chuyện này nếu xét sâu xa
    Cũng tại chú xã mới là vầy đây
    Tôi bị cách chức ngày nay
    Chắc là cũng tại cậu Hai hại mình”
    Chú xã bèn tỏ đành rành
    “Tôi đây thề có cao xanh chứng lòng
    Anh em chức việc đồng song
    Ai muốn hại vậy thiên công đọa đày
    Chẳng qua thế lực cậu Hai
    Cậu nói quan lớn sao đây mới là
    Hương Quản xin chớ trách ta
    Tôi nào có dạ tây tà hại nhau”
    Nghe qua buồn bã xiết bao
    Nhưng việc dĩ lỡ, biết sao bây giờ
    Trong lòng rối rắm như tơ
    Lại thêm một nỗi nhuốc nhơ muôn ngày
    Hương Quản vội vã ra ngoài
    Về nhà sửa soạn ra ngoài Hà Tiên
    “Đất này nhường cậu Hai Miêng
    Nếu không sớm tránh chẳng hiền cho ta
    Chi bằng mình khá dỡ nhà
    Kiếm nơi kiếm chốn cho xa ẩn mình
    Hồi nào chức phận oai danh
    Mình đây hiếp đáp dân tình nể oai
    Bây giờ thừa cái dịp này
    E cho chúng nó thù đây sai nào
    Chắc nó nhớ việc trước sau
    Báo thù báo oán dễ nào lại không
    Âu là chỗi bước ruổi dong
    Thà ta đi phút mới xong phận mình
    Ở đây thấy mặt dân tình
    Càng thêm xấu thẹn lòng thành sao an”
    Nghĩ rồi các việc lo toan
    Nội trong tuần lễ bỏ làng đi xa
    Cậu Hai này đoạn nhắc qua
    Trong lòng buồn bã bỏ nhà dạo chơi
    Kiếm nơi kiếm chốn nào vui
    Giải khuây giải muộn vậy thời mới an
    Theo sau ba kẻ điếm đàng
    Dạo chơi cùng cậu dặm tràng ra đi
    Cùng nhau bàn bạc vân vi
    “Xét ra cạn lẽ ai bì cậu Hai
    Thật là như vậy mới oai
    Làm cho Hương Quản từ nay phải chừa”
    Cậu Hai nghe rõ hơn thua
    Phân rằng: “Nếu vậy bây chưa có tàng
    Hương Quản đã trốn bỏ làng
    Còn ai đâu nữa nghinh ngang ỷ quyền”
    Điếm đàng nào rõ sự duyên
    Nghe cậu phân vậy mới liền hỏi phăng
    Cậu Hai thuật lại rõ ràng
    Các việc mọi đàng nói rõ hắc minh
    Điếm đàng chừ biết đành rành
    Thảy đều thích chí toại tình với nhau
    Kẻ thì nói đáng biết bao
    Kẻ thì nói: “Vậy thật nào có thương”
    Còn đang bàn luận mọi đường
    Bỗng nghe tiếng gái má hường kêu la
    Cậu Hai nóng dạ thay là
    “Chuyện chi chẳng rõ âu ta đến gần”
    Nhìn thấy thiên hạ rần rần
    Xúm nhau xem việc trăm phần trái tai
    Một nàng con gái mày ngài
    Đang bị một gã con trai vầy vò
    Thiên hạ chưa rõ nguyên do
    Xúm nhau xem thấy lòng tơ thêm phiền
    Ai đời thân gái thuyền quyên
    Bị tay hung thủ rất nên dữ dằn
    Thiệt là tàn ác vô ngần
    Đánh người thục nữ trăm đàng nguy nan
    Cậu Hai bước đến vội vàng
    Rạch người bước tới hỏi nàng thọ nguy
    Nàng đang khóc lóc ai bi
    Nghe cậu Hai hỏi xiết chi đau lòng
    Hai hàng nước mắt ròng ròng
    Rằng: “Tôi oan ức vô cùng thầy ơi”
    Cậu Hai bèn tỏ tức thời
    “Nàng đừng khóc lóc khúc nôi khá bày
    Chuyện chi sanh cái việc này
    Khá tua nói lại ta hay sự tình
    Chuyện chi sanh sự bất bình
    Để người vùi dập thân hình vầy đây”
    Nàng kia chưa kịp tỏ bày
    Thì chàng hung nọ chau mày phân qua
    “Chuyện này thì mặc người ta
    Mày can chi đó phòng mà dự can”
    Dứt lời làm bộ nghinh ngang
    Múa tay làm bộ xem càng đáng khinh
    Điếm đàng chi xiết bất bình
    Muốn vào bẻ họng mới đành dạ riêng
    Nhưng vì tại cậu Hai Miêng
    Ra dấu biểu khá đứng yên để mình
    Cậu Hai cũng rất bất bình
    Nhưng cậu vuốt dạ hùng anh hỏi rằng
    “Chú đừng ỷ sức dọc ngang
    Chuyện chi còn có phép quan công bình”
    Gã kia nghe vậy bất bình
    Phân rằng: “Chẳng phải việc mình thì thôi
    Chuyện người thì cứ mặc người
    Cũng không can hệ đến ngươi đâu là
    Hoặc ngươi chưa biết danh ta
    Cho nên bạo dạn mà vào dự can”
    Cậu Hai tức giận muôn vàn
    Nhưng mà vuốt dạ hỏi chàng thấp cao
    “Tôi nay xin lỗi anh hào
    Tánh danh chẳng rõ, ở đâu không tàng
    Xin người vì kẻ qua đàng
    Nói cho tôi biết rõ ràng họ tên”
    Người kia càng nổi xung lên
    Rằng: “Ta Tám Hổ khắp miền kiêng oai
    Ta làm phước nói mi hay
    Thôi thôi ra khỏi nơi này là xong”
    Cậu Hai nghe hãn đục trong
    Chẳng thèm cùng gã thủy chung chuyện trò
    Ngó qua hỏi gái đào thơ
    “Nàng tua phân hết lai do ta tàng
    Chuyện chi la xóm la làng
    Bị người đánh đập giữa đàng vầy đây”
    Nàng kia lời mới giãi bày
    “Tôi là gái ở mé ngoài làng trên
    Nhơn tôi ra chợ đổi tiền
    Chàng này chọc ghẹo rất nên thẹn thùa
    Tôi muốn cho hắn phải chừa
    Cho nên phải quấy hơn thua giãi bày
    Chẳng dè mặt dạn mày dày
    Theo ghẹo mỗi ngày nói việc ong hoa
    Tôi đây xấu hổ thay là
    Mắng chàng mấy tiếng kẻo mà chẳng kiêng
    Chẳng dè hắn xáp đến liền
    Đánh tôi tàn ác rất nên dữ dằn
    Thật là oan ức vô ngần
    Tôi đây kinh sợ la làng cứu tôi
    Chẳng ngờ việc cũng lạ đời
    Hương tuần nghe chạy đến nơi vội vàng
    Hương tuần quen lớn cùng chàng
    Chửi tôi thậm tệ hổ hang vô cùng”
    Cậu Hai nghe rõ đục trong
    Bèn hỏi Tám Hổ thủy chung sự tình
    “Rằng mình là bực hùng anh
    Đánh chi phận gái bố kình ngây thơ”
    Tám Hổ nghe nói nguyên do
    Thẹn thùa trong dạ đỏ lơ mặt mày
    Phân rằng: “Tao đã biểu mày
    Muốn an thân phận chốn này phải xa
    Chuyện ta thì để mặc ta
    Chẳng chi phòng có dò la sự tình”
    Cậu Hai chi xiết bất bình
    Dằn lòng khuyên giải hắc minh mọi đàng
    “Rằng nên tha thứ hồng nhan
    Đánh nàng dầu thắng nào chàng danh chi
    Cho tôi xin thứ nữ nhi
    Xin người tua khá xét suy cho tàng”
    Tám Hổ đặng nước nạt vang
    “Đừng xin vô ích muốn an đi liền
    Dầu cho có cậu Hai Miêng
    Đến đây ta cũng chẳng kiêng lựa mày”
    Cậu Hai nghe nói cười dài
    Điếm đàng đứng ngoài đều cũng cười vang
    Vốn gã chưa thấu mọi đàng
    Lầm người không biết lại càng hành hung
    Tám Hổ chẳng rõ đục trong
    Nghe người cười rộ vô cùng hổ hang
    Tức mình chàng mới nạt vang
    “Chuyện chi cười rộ một đoàn đáng khinh?”
    Cậu Hai lời nói trần tình
    “Nghe người ỷ thị tài mình cười chơi
    Hai Miêng sức há thua ngươi
    Mà ngươi rằng dẫu có người chẳng kiêng
    Ngươi có biết mặt Hai Miêng
    Hay là chỉ có biết tên của người?”
    Tám Hổ nghe nói mấy lời
    Đáp rằng: “Bây chớ lắm lời hỏi ta
    Tưởng ai thì lạ thì xa
    Hai Miêng Tám Hổ vốn là đệ huynh
    Ta đây là bực anh hùng
    Hai Miêng còn phải kiêng danh tựa là
    Thôi thôi chớ nói gần xa
    Muốn an thì khá tránh xa chỗ này”
    Cậu Hai lại mới giãi bày
    “Hai Miêng lát nữa đến đây thăm người”
    Tám Hổ nghe rõ khúc nôi
    Đáp rằng: “Nếu vậy vô hồi là may
    Hai Miêng nếu nó đến đây
    Ta biểu nó đánh chúng bây cho tường
    Chớ tao là bực hùng cường
    Gẫm không đáng kẻ đối đương đua tài”
    Cậu Hai nghe vậy cười dài
    Tám Hổ thấy vậy thị oai phân liền
    “Chúng bây nếu sợ Hai Miêng
    Thì tao bây phải nể kiêng kính vì
    Hai Miêng em của ta đây
    Ta dạy võ nghệ bấy chầy nào ai
    Bây giờ nó đặng thành tài
    Nhờ tao đào tạo công rày mười năm”
    Cậu Hai chừ khó nổi dằn
    Thật là căm tức vô ngần dạ riêng
    Cậu nạt một tiếng vang rền
    “Thằng này quả thật đồ điên đây rồi
    Sao mày dám dễ khinh người
    Hai Miêng chẳng có học tài với ai
    Nói cho mày biết tao đây
    Hai Miêng là mỗ sao mày dám khinh
    Thật mày nói xấu ô danh
    Ta thề quyết chẳng thứ tình mày đâu!”
    Nói rồi nhảy đến đánh nhầu
    Làm cho Tám Hổ khác nào tỉnh say
    Thiên hạ bâu đến đông vầy
    Đều cười Tám Hổ phen này tởn kinh
    Cái đời đã gặp hùng anh
    Mà không biết mặt bôi danh của người
    Tám Hổ nói lỡ mấy lời
    Bây giờ thẹn nhục vô hồi dạ riêng
    Thầm rằng: “Đã gặp Hai Miêng
    Mà mình không rõ bôi tên của người
    Nhưng mà đã nói lỡ rồi
    Dầu chết thì cũng đua tài thấp cao”
    Cậu Hai tức giận biết bao
    Bèn đá Tám Hổ dễ nào thứ dung
    Tám Hổ cũng bực anh hùng
    Né tránh rất lẹ nếu không rồi đời
    Hai Miêng ráng hết sức tài
    Đánh miếng tiền tấn phải ai mất hồn
    Tám Hổ anh chị du côn
    Cho nên cũng học côn quờn nhiều thay
    Lẹ mắt thấy đánh miếng này
    Chàng bèn tạ xuống sang ngay lẹ làng
    Cậu Hai tấn tới lẹ làng
    Tức thì như chớp đá ngang hết mình
    Tám Hổ thất vía hồn kinh
    Miếng này nguy hiểm chẳng lành chi đâu
    Túng cùng không biết làm sao
    Tám Hổ nhập nội a vào cậu Hai
    Nhập nội thế nó cũng hay
    Nếu người nào khác té ngay sai nào
    Cậu Hai là bực anh hào
    Túng thì quyền biến dễ nào thua ai
    Tám Hổ nhập nội ghê thay
    Cậu Hai ngồi xuống chống tay vững vàng
    Tám Hổ thấy vậy nào tàng
    Tưởng cậu Hai té vội vàng dậm lên
    Cậu Hai lật úp mình liền
    Tám Hổ đạp trật một bên kinh hoàng
    Đạp trật chúi nhủi té ngang
    Cậu Hai đứng dậy lẹ làng lui ra
    Tám Hổ may mắn thay là
    Chúi nhủi gượng đặng nhảy qua thủ liền
    Hai bên võ nghệ vẹn tuyền
    Đánh mấy mươi hiệp rất nên dữ dằn
    Cậu Hai trong dạ nghĩ rằng
    “Thằng này cũng giỏi vô ngần tài ba
    Nhưng nó đã gặp tay ta
    Nếu trừ không đặng ai mà kiêng đây
    Nếu mình cứ đánh như vầy
    Thì chắc cả ngày hạ chẳng đặng đâu
    Vì nó võ nghệ cũng cao
    Lại thêm mạnh mẽ khác nào là voi
    Chi bằng ta ráng hết tài
    Đánh miếng thiệt độc hạ người mới xong”
    Hai bên đều bực anh hùng
    Cho nên thủ thế vô cùng kín hay
    Cậu Hai sẻ thẳng hai tay
    Phụng hoàng chiếc nhỉ miếng này hiểm nguy
    Rùng mình sụng xuống tức thì
    Làm cho Tám Hổ nan tri miếng gì
    Nhưng chàng bước đến tức thì
    Thấy cậu thủ trọng dễ khi đá nhầu
    Cậu bèn lách lại rất mau
    Hạ tay vói nắm mé sau ót chàng
    Cái miếng quái lạ trăm đàng
    Tám Hổ ngồi xuống lẹ làng lắm thay
    Nhưng cái miếng thần cậu Hai
    Mười người như một chẳng ai vẫy vùng
    Tám Hổ ngồi xuống vừa xong
    Cậu Hai thừa thế liền bồng hỏng lên
    Thật là cái miếng diệu huyền
    Bồng lên nhẹ hỏng cậu liền liệng xa
    Tám Hổ kinh sợ thay là
    Bị liệng té sấp cách xa vô cùng
    Cậu Hai nhảy đạp trên lưng
    Tám Hổ hết thế vẫy vùng kêu la
    Rằng: “Xin hào kiệt thứ tha
    Tôi đà kính phục đến già không sai
    Anh hùng làm phước nới tay
    Tha tôi còn sống ơn rày ghi xương”
    Cậu Hai lời mới bày tường
    “Ta muốn đưa xuống Diêm vương cho rồi
    Nhưng ta thấy cũng có lời
    Thứ dung cho đặng toàn đời từ đây
    Ta nói cho đó rõ hay
    Hai Miêng là mỗ mặt mày biết chưa”
    Tám Hổ nghe vậy liền thưa
    “Vốn trước không rõ hơn thua nên lầm
    Ngày nay đã thấu mọi phần
    Thật tôi khắc cốt ghi tâm từ rày”
    Cậu Hai thấy vậy tha ngay
    Tám Hổ ngồi dậy mặt mày sượng trân
    Lại thêm thiên hạ cười rần
    Cậu Hai vội vã dời chân đi liền
    Tám Hổ thẹn nhục dạ riêng
    Vô cùng phục cậu Hai Miêng từ rầy
    Cậu Hai kiếm chốn giải khuây
    Nhưng bị chuyện này trời đã tối đen
    Điếm đàng ý muốn kiếm tiền
    Liền thưa cùng cậu Hai Miêng lời này
    “Chúng tôi có một việc hay
    Xin thưa cùng cậu vắn dài tường tri
    Dưới ghe cờ bạc thiếu gì
    Chúng mình xuống đó thừa khi kiếm tiền”
    Cậu Hai nghe rõ sạ duyên
    Vốn không túng thiếu bạc tiền như ai
    Nhưng cậu ý muốn giải khuây
    Ham vui tánh ý thuở nay quen rồi
    Cho nên nghe nói mấy lời
    Cậu Hai đành dạ thức thời đồng đi
    Bến sông thẳng đến tức thì
    Xuống ghe xem thử chơi chi cho tàng
    Ghe thầy Cai Tổng đâu ngang
    Điếm đàng chẳng rõ bước càn mà đi
    Thầy cai nằm hút đang khi
    Ghe nghiêng mâm hút tức thì đổ văng
    Chụp đèn bể nát trong khoang
    Thầy Cai tức giận vội vàng bước ra
    Thấy người đang lúc bước qua
    Thầy Cai thêm giận hét la vang vầy
    “Cả gan thay cái lũ bây
    Có biết ghe này ghe của ai chăng”
    Thầy Cai lại chửi mần răng
    “Một bầy chó đói vô ngần dọc ngang
    Ai đời đã thấy ghe quan
    Lại còn dám bước đi càng không kiêng
    Bầy mọi làm chiếc ghe nghiêng
    Mau mau đền lại mâm đèn cho ta
    Bằng không bây phải bán nhà
    Chạy tiền cho đủ kẻo ta bỏ tù”
    Điếm đàng bị mắng một hơi
    Có người say rượu tức thời trần phân
    “Chẳng biết ghe quan ghe dân
    Chúng ta cứ việc tiện chân đi càn”
    Thầy Cai nghe nói dọc ngang
    Tràn hông nư giận hét vang đánh liền
    Một mình mà đánh sáu tên
    Điếm đàng cũng chẳng phải hiền chi đâu
    Chúng nó hiệp sức cùng nhau
    Xốc đến đánh nhầu lại với thầy Cai
    Cậu Hai đứng đó thị oai
    Đứng xem cho biết sức tài hai bên
    Thầy Cai võ nghệ vẹn tuyền
    Đánh bọn đàng điếm rất nên kinh hoàng
    Ai đời hết thảy sáu chàng
    Mà đánh chẳng xuể té càng ngả nghiêng
    Thầy Cai đánh dưới trở lên
    Tràn qua né lại rất nên lẹ làng
    Một mình đánh ước sáu chàng
    Sức thầy dư sức rõ ràng hùng anh
    Nửa giờ nỗ lực chống kình
    Điếm đàng bị đá trầm mình dưới sông
    Sáu người thì cũng như không
    Kẻ thì xể mặt máu hồng tuôn sa
    Kẻ thì lọi cẳng kêu la
    Kẻ thì xể trán rất là kinh mang
    Thầy Cai đánh đẹp đã an
    Trông thấy một kẻ đứng đang chiếm cười
    Thầy Cai ỷ sức ỷ tời
    Thầy mới bày lời phân hỏi thấp cao
    Bọn này chồn cáo khác nào
    Còn ai đúng bực anh hào vô đây
    Cậu Hai nghe nói giận thay
    Tức thì nhảy đá thầy Cai lẹ làng
    Thầy Cai thất vía sảng hoàng
    Bởi thấy miếng đá gọn gàng vô song
    Cậu Hai ra sức anh hùng
    Đánh cùng Cai tổng quyết không chịu nhường
    Hai người nỗ lực đấu đương
    Hai bên đều bực hùng cường xứng tay
    Thầy Cai thua sức cậu Hai
    Trong lòng khiếp sợ ráng tài đua tranh
    Cậu Hai đánh rất lẹ lanh
    Thầy Cai chóa mắt chóng kình sao qua
    Cậu Hai liền thối bước ra
    Thầy Cai thấy vậy tưởng là cậu thua
    Tức thì nhảy đến đánh đùa
    Cậu Hai đắc chí bèn thừa dịp ni
    Cậu bèn lách trái lánh nguy
    Đoạn liền đá tới tức thì quá lanh
    Thầy Cai bởi chẳng giữ mình
    Bị đá thình lình văng tút vào khoang
    Cậu Hai nhảy tới lẹ làng
    Đạp thầy Cai tổng chận ngang ba sườn
    Cậu rằng: “Đừng ỷ oai cường
    Ta đưa nó xuống diêm vương bây giờ”
    Thầy Cai thất thế sa cơ
    Thật là xấu hổ thẹn nhơ vô cùng
    Nhưng mà hết thế vẫy vùng
    Dám đâu cứng cổ mà không kêu cầu
    Rằng: “Xin rộng lượng anh hào
    Tha cho khỏi thác dám nào quên ơn”
    Cậu Hai cũng muốn làm nhơn
    Tha thầy Cai tổng khỏi cơn nguy nàn
    Thầy Cai kính phục trăm đàng
    Tức thì xin lỗi hỏi han sự tình
    Rằng: “Tôi rất phục hùng anh
    Xin cho tôi biết quý danh ghi lòng”
    Đáp rằng “Hễ đứng bá tòng
    Tánh danh há giấu mà không giãi bày
    Hai Miêng vốn thật tôi đây
    Con quan lớn Tấn xứ này nào ai”
    Nghe qua Cai Tổng vui thay
    Phân rằng: “Nếu vậy tôi đây đã lầm
    Tưởng ai chẳng rõ mọi phần
    Bây giờ biết đặng vui mừng biết bao
    Quan lớn chẳng lạ tôi đâu
    Vốn là thân thích với nhau vô cùng
    Còn cậu tôi thật chẳng thông
    Nhưng nghe danh tiếng anh hùng lâu nay
    Chẳng dè gặp gỡ như vầy
    Tôi lầm xin cậu thương đây thứ tình”
    Cậu Hai nghe hãn hắc minh
    “Nếu vậy tôi cũng bất bình lỗi thay
    Vì chơn không biết mặt thầy
    Cho nên xúc phạm như vầy xin dung”
    Cả hai đều thảy vui mừng
    Thật là hào kiệt anh hùng đoàn viên
    Thầy Cai với cậu Hai Miêng
    Cùng nhau trò chuyện rất nên hiệp hòa
    Hết gần rồi đến chuyện xa
    Cùng nhau uống nước rất là thỏa tâm
    Cậu Hai thỏa chí trăm phần
    Thầy Cai chẳng biết mấy lần tặng khen
    Đến đây dứt chuyện Hai Miêng
    Xin dưng lục vị giải phiền canh thâu.

  • Bình luận

Cùng thể loại:

  • Vè ông Hường Hiệu

    Kể từ lịch sử nước Nam triều,
    Thương cho mấy người tài năng học sĩ chết đã nhiều vì Tây qua
    Quảng Nam có ông Hường Hiệu ở Thanh Hà,
    Trung thành với nước nên xa chốn triều thần
    Về nhà sầu thảm với nhân dân,
    Lâm vô tử trận chín mười phần còn chi
    Tụi Tây qua đã tới Trung Kỳ,
    Đế đô co kéo còn gì nước Nam
    Giận thay cho chú Cần Thân,
    Cầu tham lam mãi quốc biết ăn làm với ai
    Nước Nam mình thiếu chi kẻ anh tài,
    Văn chương đủ hết không dùi mài cho nên
    Để cho nhà dột khó ngăn,
    Thơ ông Hường để lại dưới đền đinh ninh
    Thương thay cho cộng sản hữu tình,
    Trung thành với Tổ quốc liều mình cho nên khô
    Nghĩ sự tình thảm biết chừng mô,
    Kẻ thì bị đày ra bỏ vợ, người bị giải vô bỏ chồng
    Thù xưa còn hỡi ghi lòng,
    Gang sơn Tổ quốc khi không mà thành
    Giậm chân kêu với ông trời xanh,
    Nhân dân xuất thế giặc Nam thành cũng tan
    Đánh Anh, Tây, Nhật đầu hàng,
    Sơn băng thuỷ kiệt mở mang cho nước nhà.

  • Giữa năm Đinh Dậu mới rồi

    Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
    Sư ông chùa Lãng là người đảm đang
    Viết tờ quyên giáo các làng
    Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
    Chiều hôm còn ở Đồng Xâm
    Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương
    Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
    Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh
    Phá dinh công sứ Thái Bình
    Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân.

  • Thơ thằng Lía

    Ngàn năm dưới bóng thái dương,
    Biết bao là sự lạ thường đáng ghi,
    Noi nghề hàng mặc bấy nay,
    Một pho dị sự vắn dài chép ra.
    Trước là giải muộn ngâm nga,
    Sau nêu gương nọ đặng mà soi chung.
    Xưa kia có một phú ông,
    Vợ chồng chuyên một nghề nông nuôi mình,
    Bấy lâu loan phụng hòa minh,
    Xóm làng kiêng nể tánh tình thiện lương.
    Tuy là sành sỏi ruộng nương,
    Ông bà xấu số gặp đường chẳng may,
    Thuở trước cũng chẳng thua ai,
    Tiền dư bạc sẵn tháng ngày thung dung,
    Ruộng vườn khai khẩn khắp cùng,
    Thôn lân đều thảy có lòng bợ nâng.
    Đến nay nhằm buổi lao lung,
    Ruộng nương thất phát vô cùng thảm thương,
    Tháng ngày khổ hại trăm đường,
    Bảy năm chịu sự tai ương nguy nàn,
    Bấm gan cam chịu gian nan,
    Vợ chồng đau đớn đoạn tràng thiết tha.
    Lần hồi ngày lụn tháng qua,
    Nghèo nàn túng tíu gẫm đà thói quen,
    Thét rồi cũng chẳng than phiền,
    Cắn răng mà chịu đảo điên qua hồi.
    Lão mụ tuổi đã lớn rồi,
    Vợ bốn mươi chẵn chồng thời bốn ba,
    Đêm ngày lo tính gần xa,
    Chẳng con kế tự thật là đáng lo,
    Choanh ngoảnh chồng vợ đơn cô,
    Tuổi già sức yếu biết nhờ cậy ai?

  • Vè bình dân học vụ

    Lẳng lặng mà nghe
    Cài vè học vụ
    Đồng bào mù chữ
    Ở khắp mọi nơi
    Chiếm chín phần mười
    Toàn dân đất Việt
    Muôn bề chịu thiệt
    Chịu đui, chịu điếc
    Đời sống vùi dập
    Trong vòng nô lệ
    Hơi đâu mà kể
    Những sự đã qua
    Chính phủ Cộng hòa
    Ngày nay khác hẳn
    Đêm ngày lo lắng
    Đến việc học hành
    Mấy triệu dân lành
    Còn đương tăm tối
    Bị đời hất hủi
    Khổ nhục đáng thương
    Ngơ ngác trên đường
    Như mù không thấy
    Những điều như vậy
    Không thể bỏ qua

  • Vè chàng Lía

    Lía ta nổi tiếng anh hào
    Sơn hà một góc thiếu nào người hay
    Bạc tiền thừa đủ một hai
    Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
    Làm cho bốn biển anh hùng
    Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
    Kẻ nào tàn ác lâu nay
    Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
    Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
    Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
    Nhất nhì những bực nhà quan
    Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
    Nhà nào nhiều bạc dư tiền
    Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
    Tuy chàng ở chốn non đầu
    Nhưng mà lương thực vật nào lại không
    Lâu la ngày một tụ đông
    Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
    Mọi người trên dưới trong ngoài
    Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
    Tiếng tăm về đến trào đàng
    Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
    Nam triều chúa ngự ngai vàng
    Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
    Có quan ngự sử bày phô
    Tâu lên vua rõ lai do sự tình
    Đem việc chàng Lía chiêu binh
    Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
    Nào khi Lía phá xóm làng
    Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
    Kể tên những bậc phú hào
    Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
    Vua ngồi nghe rõ một hai,
    Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
    – Dè đâu có đứa gian tà
    Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
    Truyền cho mười vạn binh hùng
    Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
    Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
    Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
    Gập ghềnh bao quản núi non
    Dậy trời sát khí quân bon lên rừng.

  • Vè lính mộ

    Tai nghe nhà nước mộ dân,
    những lo những sợ chín mười phần em ôi.
    Anh đi ra mặt biển chưn trời,
    ơn cha nghĩa mẹ hai nơi chưa đền.
    Dầu mà ông Tây bắt làm phên,
    nhất thắng nhì bại, không quên cái nghĩa sinh thành.
    Xót em vò võ một mình,
    anh đi ra biển thẳm non xanh tư bề.
    Vai mang khẩu súng lưng dắt lưỡi lê,
    thôi thiếp bồng con dại lui về mần ăn.
    Ví dầu anh có mần răng,
    nơi mô xứng gió vừa trăng em đành.
    Phận chàng vạn tử nhứt sanh,
    trên thời mây đen kịt, dưới nước xanh dờn dờn.
    Tư bề sóng bể như sơn,
    đau lòng xót dạ nhiều cơn lắm bớ nàng.
    Trăm lạy ông trời đặng chữ bình an,
    đóng lon chức Đội về làng hiển vinh.
    Làm thịt con heo quy tế tại đình,
    rượu chè chàng đãi dân tình một diên.
    Tay bắt tay miệng lại hỏi liền:
    anh đi ra mấy tháng em có phiền hay không.
    Bảy giờ mai bước xuống tàu đồng,
    tối tăm mù mịt như rồng với mây.
    Hai bên những lính cùng Tây,
    quân gia kéo tới chở đầy tàu binh…

  • Vè đội Cấn

    Năm Đinh Tỵ mười ba tháng bảy
    Nước Nam mình phút dậy can qua
    Thái Nguyên nay có một tòa
    Khố xanh, khố đỏ được ba trăm người
    Cũng chí toan chọc trời khuấy nước
    Ông Đội ra đi trước cầm binh
    Rủ nhau lập tiểu triều đình
    Những là cai đội khố xanh bằng lòng
    Duy phó quản bất tòng quân lệnh
    Hóa cho nên hủy mệnh xót xa
    Sai người mở cửa nhà pha
    Đem tù ra điểm được là bao nhiêu?
    Truyền tù nhân cứ theo quân lệnh
    Chớ thị thường uổng mệnh như chơi
    Rồi ra làm lễ tế trời
    Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang

Có cùng từ khóa:

Chú thích

  1. Thiên địa chí công
    Trời đất rất công bằng.
  2. Huỳnh Công Miêng
    Con trai của lãnh binh Huỳnh Công Tấn, một tay sai đắc lực của thực dân Pháp vào cuối thế kỉ 19. Trái ngược với cha, ông là người có máu giang hồ mã thượng, thích ngao du và làm việc nghĩa, tính tình hào phóng, hay bênh vực kẻ yếu, vì vậy được nhân dân yêu mến và gọi là "cậu." Nhờ oai danh cha, cậu hai Miêng được mệnh danh là "miễn tử lưu linh," có nghĩa là được miễn sưu thuế, đi đâu mặc tình, không ai được phép "hỏi giấy"... và cũng lợi dụng những đặc ân đó để làm những chuyện nghĩa hiệp.
  3. Lãnh binh Tấn
    Tên thật là Huỳnh Tấn hay Huỳnh Văn Tấn, cũng gọi là Huỳnh Công Tấn, một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân vào những năm gần cuối thế kỷ 19 tại các tỉnh Nam Kỳ. Tấn là người đã dẫn quân Pháp tấn công, vây bắt Trương Định năm 1864, Võ Duy Dương (1866) và Nguyễn Trung Trực (1968). Nhờ những "công lao" này, ông được Pháp ban cho huy chương “Bắc đẩu Bội tinh” và chức Lãnh binh, đồng thời xây dựng "đài ghi công" tại Gò Công (sau đã bị đập nát).
  4. Gò Công
    Nay là tên một thị xã thuộc tỉnh Tiền Giang, giáp với thành phố Mỹ Tho. Tỉnh Gò Công ngày xưa bao gồm thị xã Gò Công, huyện Gò Công Đông và huyện Gò Công Tây ngày nay. Gò Công Đông và Gò Công Tây là vùng duyên hải, có hai cửa biển của sông Tiền: cửa Đại và cửa Tiểu. Tên gọi Gò Công xuất phát từ việc vùng đất này trước đây có nhiều chim công (khổng tước), vì vậy tên Hán Việt của Gò Công là Khổng Tước Nguyên. Gò Công gắn liền với tên tuổi người anh hùng Trương Định.

    Phong cảnh Gò Công Đông

    Phong cảnh Gò Công Đông

  5. Nam Kỳ lục tỉnh
    Tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian từ năm 1832 tới năm 1862 (khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông) và năm 1867 (khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây), bao gồm sáu (lục) tỉnh:

    1. Phiên An, sau đổi thành Gia Định (tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn),
    2. Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa),
    3. Định Tường (tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho) ở miền Đông;
    4. Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long),
    5. An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc),
    6. Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở miền Tây.

    Bản đồ Lục tỉnh năm 1808

    Bản đồ Lục tỉnh năm 1808

  6. Dọc ngang
    Từ chữ Hán tung hoành, một khái niệm của Trung Quốc. Tung là chiều dọc theo hướng từ Nam sang Bắc, hoành là chiều ngang theo hướng từ Tây sang Đông. Tung hoành nghĩa rộng chỉ chí khí của người con trai.
  7. Khúc nôi
    Nỗi lòng tâm sự thầm kín khó nói ra (từ cũ). Cũng nói là khúc nhôi.
  8. Hốt me
    Còn có tên là đánh me hoặc đánh lú, một trò cờ bạc ngày trước, ban đầu chơi bằng hạt me, về sau thay bằng nút áo. Người ta dồn hạt me thành đống khoảng vài trăm hạt. Chiếu chơi me là vải bố dày phủ lên lớp sơn trắng, trên vạch hai đường chéo đen thành một dấu nhân ( x ) chia mặt vải thành bốn ô là Tam, Túc, Yêu, Lượng, lần lượt tương ứng với 1, 2, 3, và 4 hạt. Trước khi cược tiền, chủ cái dùng một cái que gạt bằng tre gạt từ đống hạt me ra phía trước một số lượng hạt ngẫu nhiên. Khi các con bạc cược tiền vào ô mình chọn xong, chủ cái dùng que gạt để đếm hạt me. Cứ mỗi lần gạt 4 hạt rồi lùa vào trong cho đến lượt cuối cùng chỉ còn lại 4 hạt trở xuống. Nếu thừa 1 hạt là Tam, 2 hột là Túc, 3 hạt là Yêu, 4 hạt là Lượng, rồi căn cứ vào đó mà chung tiền.
  9. Chệch
    Từ gọi một cách bình dân, thiếu tôn trọng dành cho người Hoa sinh sống ở nước ta. Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ từ a chệch, cách người Triều Châu (một vùng ở Trung Quốc) gọi chú (em của bố). Hiện nay từ này hay bị viết và đọc nhầm là chệt hoặc chệc. Ở miền Bắc, từ này có một biến thể là chú Chiệc.
  10. Hãn
    Rõ ràng, chắc chắn (cổ ngữ, phương ngữ Nam Bộ).

    Trước sau chưa hãn dạ này
    Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?

    (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)

  11. Âm hao
    Tin tức. Như âm háo 音耗  tăm hơi. Ta quen đọc là âm hao (từ điển Thiều Chửu).

    Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
    Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
    Dịch thơ:
    Xa cách các em tin tức bặt
    Bình yên mấy chữ thấy đâu mà.

    (Sơn cư mạn hứng - Nguyễn Du, người dịch: Nguyễn Thạch Giang)

  12. Tàng
    Tường (rõ ràng) (phương ngữ Nam Bộ).
  13. Bát tiên
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Bát tiên, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  14. Ngồi lúng
    Ngồi lì, ngồi mãi, ngồi nán (phương ngữ Nam Bộ).
  15. Cái
    Cũng gọi là nhà cái, người nắm vai chủ của một ván bài, sới bạc hoặc cuộc cá cược.
  16. Đàng điếm
    Cũng viết là điếm đàng, nghĩa đen là người lang thang ngoài đường (đàng) trong quán (điếm), hiểu rộng là những kẻ "hay phỉnh phờ, lường gạt, thường hiểu là đứa hay ngồi lều ngồi chợ hay toa rập làm điều gian lận" (Đại Nam quấc âm tự vị).
  17. Đặng
    Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
  18. Vích đốc
    (Ngồi hoặc nằm) bắt chéo chân, dáng điệu trịch thượng.
  19. Biểu
    Bảo (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  20. Từ biểu thị ý như muốn hỏi nhưng thật ra là để khẳng định rằng: không có lẽ nào lại như thế (từ cũ).

    Bờ cõi xưa đà chia đất khác
    Nắng sương nay há đội trời chung

    (Ngóng gió đông - Nguyễn Đình Chiểu)

  21. Hắc minh
    Sáng tối (chữ Hán). Chỉ tất cả mọi việc có thể nghĩ đến.
  22. Vầy
    Như vậy, như thế này (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  23. Như
    Nếu như, ví như (cách nói của Nam Bộ).
  24. Dưng
    Dâng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  25. Thủy chung
    Trước và sau. Thường được dùng với nghĩa (tình cảm) trước sau như một, không thay đổi. Từ này trước đây cũng được viết là thỉ chung.
  26. Mựa
    Chớ, đừng (từ cổ).

    Chăn dân mựa nữa mất lòng dân
    (Nguyễn Trãi)

  27. Thỏa tâm
    Vừa lòng, vui lòng.
  28. Vô hồi
    Không ngừng, không hết, một cách nói của người Nam Bộ (cực vô hồi, mừng rỡ vô hồi...).
  29. Cửa lượng, cửa túc: có lẽ là các cửa để đặt cược trong trò chơi me.
  30. Đánh quay
    Một trò chơi dân gian rất phổ biến trước đây. Người chơi dùng một sợi dây quấn quanh con quay, sau đó bổ (lăng, giật) thật nhanh để con quay xoay càng nhiều vòng trước khi đổ càng tốt. Con quay có thể làm bằng gỗ, sừng, chũm cau, hạt nhãn, hạt vải, hạt mít, đất sét...

    Ngày xưa vào những ngày lễ Tết thường tổ chức đánh quay, có thể có tranh đua ăn tiền.

    Tùy theo địa phương mà trò này có các tên khác là đánh vụ, đánh gụ hoặc đánh cù. Con quay cũng có các tên tương ứng là bông vụ, con gụ hoặc con cù.

    Đánh quay

    Đánh quay

  31. Lúc lắc
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Lúc lắc, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  32. Bầu cua
    Một số vùng gọi là tôm cua hoặc bầu cua cá cọp, một trò cờ bạc rất phổ biến ngày trước, hiện vẫn còn được chơi vào ngày Tết. Trò bầu cua gồm có một tờ giấy gọi là bàn bầu cua, gồm 6 ô vẽ hình 6 linh vật: tôm, cua, bầu, cá, gà, nai; 3 viên xúc xắc in hình 6 linh vật này; và một cái chén đậy nắp. Người chủ bàn (cái) lắc ba viên xúc xắc trong cái chén, không mở nắp, mời người chơi đặt cược. Nếu khi mở nắp chén ra, mặt ngửa của xúc xắc có linh vật người chơi đã đặt cược thì người ấy thắng.

    Bàn bầu cua

    Bàn bầu cua

  33. Bài cào
    Một kiểu đánh bài bằng bài Tây (bài tú-lơ-khơ). Luật chơi rất đơn giản: mỗi người chơi được chia ba lá bài, cộng điểm lại rồi lấy chữ số cuối cùng, ai điểm cao nhất thì thắng.
  34. Tứ sắc
    Tên một trò chơi bài lá phổ biến ở Trung và Nam Bộ. Bộ bài tứ sắc có 28 lá khác nhau, chia thành 4 màu (đỏ, vàng, xanh, trắng) và 7 cấp bậc: Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt.

    Bài tứ sắc

    Bài tứ sắc

  35. Hài nhi
    Trẻ thơ, trẻ sơ sinh (từ Hán Việt).
  36. Đại
    (Làm việc gì) ngay, chỉ cốt cho qua việc, hoặc không kể đúng sai (khẩu ngữ).
  37. Phân
    Nói cho rõ, bày tỏ.
  38. Trăng
    Hai tấm ván khoét lỗ, đóng lại để cùm chân kẻ có tội.
  39. Chỗi
    Cất, rời đi (chỗi dậy, chỗi gót, chỗi bước...). Có lẽ đây là từ gốc của từ trỗi trong trỗi dậy.
  40. Chơn
    Chân (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  41. Sạ duyên
    Đọc trại của sự duyên, nghĩa là duyên do sự việc.
  42. Bất bình
    Không bằng lòng (vì những chuyện nghe thấy, trông thấy) mà trở nên tức giận.
  43. Khi
    Xem nhẹ (khinh khi, khi dễ...).
  44. Lịnh
    Lệnh (phương ngữ Nam Bộ).
  45. Danh tính
    Tên (danh) và họ (tính). Cũng nói là danh tánh, tính danh, hoặc tánh danh.
  46. Phách lạc hồn phi
    Hồn bay phách lạc, vô cùng sợ hãi.
  47. Chừ
    Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  48. Sảng hoàng
    Hoảng hốt (phương ngữ), kinh hoàng. Cũng nói là sảng hồn.
  49. Tua
    Nên, phải (từ cổ).
  50. Trối kệ
    Mặc kệ, không quan tâm đến.
  51. Từ rày sấp lên
    Từ nay trở đi (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Có nơi nói và viết là Từ rày sắp lên.
  52. Toại
    Thỏa ý nguyện (từ Hán Việt).
  53. Phỉ
    Đủ, thỏa mãn. Như phỉ chí, phỉ dạ, phỉ nguyền...
  54. Hổ hang
    Hổ thẹn (từ cổ).
  55. Chú ôn
    Con khỉ.
  56. Va
    Y, hắn (từ cổ).
  57. Đốc
    Xúi giục (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  58. Tham biện
    Cũng gọi là tham tá, một chức quan cao cấp dưới thời Pháp thuộc, chuyên về công việc hành chính.
  59. Trát
    Giấy truyền lệnh của quan lại ngày xưa. Từ chữ Hán 札 nghĩa là cái thẻ, vì ngày xưa không có giấy nên mọi mệnh lệnh muốn truyền đạt phải viết vào miếng gỗ nhỏ.
  60. Chúa nhựt
    Chủ nhật (phương ngữ Nam Bộ).
  61. Ngài
    Người (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
  62. Bồi
    Người hầu hạ, giúp việc, thường là nam giới nhỏ tuổi. Từ này có gốc là phiên âm của từ tiếng Anh boy.

    Biết thân, thuở trước đi làm quách,
    Chẳng kí, không thông, cũng cậu bồi!

    (Than nghèo - Tú Xương)

  63. Tự sự nan tri
    Không biết chuyện gì.
  64. Quan hệ
    Quan trọng, hệ trọng (cách nói cũ).
  65. Kí lục
    Một trong hai chức quan phụ tá cho chức quan lưu thủ đứng đầu một tỉnh dưới thời nhà Nguyễn (chức quan kia là cai bạ). Quan kí lục coi việc lễ nghi, khánh tiết, hình án và thưởng phạt cấp dưới. Vị quan kí lục nổi tiếng nhất có lẽ là ông Nguyễn Cư Trinh, trước là kí lục tỉnh Quảnh Bình, sau có công bình định vùng đồng bằng sông Cửu Long về cho nhà Nguyễn.

    Trong thời Pháp thuộc, kí lục chỉ người làm nghề ghi chép sổ sách trong các sở, còn gọi là thầy kí.

  66. Vị tình
    Nể tình (chữ Hán).
  67. Cừu
    Mối thù (từ Hán Việt).
  68. Tây tà
    Có ý riêng tư (tây) và không ngay thẳng (tà).
  69. Dĩ lỡ
    Đã lỡ, đã trót làm việc gì (phương ngữ Nam Bộ).
  70. Hà Tiên
    Địa danh nay là thị xã phía tây bắc tỉnh Kiên Giang, giáp với Campuchia. Tên gọi Hà Tiên bắt nguồn từ Tà Ten, cách người Khmer gọi tên con sông chảy ngang vùng đất này.

    Hà Tiên về đêm

    Hà Tiên về đêm

  71. Vân vi
    Đầu đuôi câu chuyện, đầu đuôi sự tình (từ cũ).
  72. Má hường
    Má hồng (phương ngữ Nam Bộ). Xem má hồng.
  73. Mày ngài
    Đôi lông mày thanh tú, dài và cong như râu con ngài (bướm). Hình ảnh mày ngài cũng được dùng để chỉ người con gái đẹp.
  74. Thuyền quyên
    Gốc từ chữ thiền quyên. Theo từ điển Thiều Chửu: Thiền quyên 嬋娟  tả cái dáng xinh đẹp đáng yêu, cho nên mới gọi con gái là thiền quyên.

    Trai anh hùng, gái thuyền quyên
    Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng

    (Truyện Kiều)

  75. Thục nữ
    Người con gái hiền dịu, nết na (từ Hán Việt).
  76. Thọ nguy
    Chịu cảnh nguy nan (từ Hán Việt).
  77. Đào tơ
    Do tiếng Hán Đào yêu, tên một bài thơ trong Kinh Thi, trong có đoạn:

    Đào chi yêu yêu,
    Hữu phần kỳ thực.
    Chi tử vu quy,
    Nghi kỳ gia thất.

    Tạ Quang Phát dịch:

    Đào tơ mơn mởn tươi xinh,
    Trái đà đơm đặc đầy cành khắp cây.
    Theo chồng, nàng quả hôm nay.
    Ấm êm hòa thuận nồng say gia đình.

    Văn học cổ thường dùng những chữ như đào non, đào tơ, đào thơ, đào yêu... để chỉ người con gái đến tuổi lấy chồng.

  78. Lai do
    Nguyên do sự việc.
  79. Hương tuần
    Một chức sắc trong làng ngày trước, chuyên về việc canh gác, đi tuần.
  80. Bố kình
    Cũng đọc là bố kinh. Bố là vải; kinh là gai, do câu “bố quần kinh thoa” (mặc quần áo bằng vải, cài trâm bằng gai). Thành ngữ xuất phát từ điển tích Lương Hồng đời Ngụy Võ Đế (Trung Quốc), học thức uyên bác và rất trọng khí tiết. Lương Hồng cưới vợ là nàng Mạnh Quang, con nhà giàu có. Lúc mới về nhà chồng, nàng ăn mặc lộng lẫy, trang sức theo con nhà đài các. Lương Hồng lẳng lặng trong bảy ngày không nhìn đến vợ. Mạnh Quang nhận biết, tự thay đổi hàng lụa, mặc quần áo vải, cài trâm bằng gai. Lương Hồng mừng rỡ bảo: “Đây mới chính là vợ của Lương Hồng.” Bố kình vì vậy chỉ người vợ hiền từ, cũng có thể hiểu là người con gái hiền hậu.
  81. Má hồng
    Từ chữ hồng nhan (cũng nói là hường nhan ở Nam Bộ), từ dùng trong văn thơ cổ chỉ người con gái đẹp.

    Phận hồng nhan có mong manh
    Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương

    (Truyện Kiều)

  82. Lựa
    Huống gì (từ cổ).
  83. Bấy chầy
    Từ ấy đến nay, bao lâu nay (từ cổ).

    Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
    Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
    (Truyện Kiều)

  84. Rày
    Nay, bây giờ (phương ngữ).
  85. Mỗ
    Từ dùng để tự xưng, có thể mang hàm ý trịch thượng ngày trước.
  86. Ô danh
    Tiếng xấu (từ Hán Việt).
  87. Đánh nhầu
    Đánh lung tung lộn lạo, không kiêng kị chỗ nào, không kiêng kị gì ai.
  88. Đông vầy
    Rất đông đúc, chen chúc nhau. Từ này ở miền Trung và miền Nam được phát âm thành đông dầy.
  89. Bôi
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Bôi, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  90. Quờn
    Quyền (cách phát âm Nam Bộ).
  91. A vào
    Xáp vào.
  92. Ghe
    Thuyền nhỏ, thường đan bằng tre (gọi là ghe nan) hoặc bằng gỗ. Từ này đôi khi được dùng để chỉ tàu thuyền nói chung, nhất là ở vùng Trung và Nam Bộ.

    Chèo ghe

    Chèo ghe

  93. Chánh tổng
    Gọi tắt là chánh, chức quan đứng đầu tổng. Cũng gọi là cai tổng.
  94. Càn
    Ẩu, bừa (nói càn, làm càn).
  95. Cơn giận (từ cũ, phương ngữ Nam Bộ).
  96. Tời
    Tài (cách phát âm của người Nam Bộ).
  97. Ni
    Này, nay (phương ngữ miền Trung).
  98. Quảng Nam
    Tên một tỉnh ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, trước đây bao gồm cả thành phố Đà Nẵng, gọi chung là tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Quảng Nam có nghĩa là "mở rộng về phương Nam." Tỉnh Quảng Nam giàu truyền thống, độc đáo về bản sắc văn hóa với những danh tích như thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An...

    Vẻ đẹp Hội An

    Vẻ đẹp Hội An

  99. Nguyễn Duy Hiệu
    Có sách ghi là Nguyễn Hiệu, tục gọi là Hường Hiệu, một chí sĩ và lãnh tụ thuộc phong trào Cần Vương. Ông sinh năm Đinh Mùi (1847) tại làng Thanh Hà, huyện Duyên Phúc (nay là xã Cẩm Hà, thành phố Hội An), tỉnh Quảng Nam. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông cùng Trần Văn Dư (1839-1885), Phan Bá Phiến (còn gọi là Phan Thanh Phiến, 1839-1887), Nguyễn Tiểu La (tức Nguyễn Hàm, 1863-1911), thành lập Nghĩa hội Quảng Nam, rồi ra bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh cùng đứng lên đáp nghĩa. Đến năm 1887, cuộc khởi nghĩa thất bại, ông tự trói mình nạp cho giặc để cứu nghĩa quân. Ông bị chém ngày 15/10/1887, hưởng dương 40 tuổi, để lại hai bài thơ tuyệt mệnh bằng chữ Hán. Sau đây là một bài được Huỳnh Thúc Kháng dịch:

    Cần vương Nam Bắc kết tơ đồng
    Cứu giúp đường kia khổ chẳng thông
    Muôn thuở cương thường ai Ngụy Tháo?
    Trăm năm tâm sự có Quan Công
    Non sông phần tự thơ trời định
    Cây cỏ buồn trông thấy đất cùng
    Nhắn bảo nổi chìm ai đó tá?
    Chớ đem thành bại luận anh hùng.

  100. Thanh Hà
    Tên một ngôi làng ở Quảng Nam, nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, cách phố cổ Hội An chừng 3 km về hướng Tây. Làng có nghề làm gốm truyền thống từ đầu thế kỉ 16.

    Gốm Thanh Hà

    Gốm Thanh Hà

  101. Chi
    Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  102. Ba kỳ
    Tức Tam Kỳ, tên gọi chung cho ba vùng đất do thực dân Pháp và triều đình bù nhìn nhà Nguyễn phân chia nước ta vào thế kỉ 19. Ba kỳ gồm có: Bắc Kỳ (Tonkin, từ phía Nam tỉnh Ninh Bình trở ra), Trung Kỳ (Annam, từ phía bắc tỉnh Bình Thuận đến Đèo Ngang) và Nam Kỳ (Cochinchine).

    Bản đồ Việt Nam thời Pháp thuộc

    Bản đồ Việt Nam thời Pháp thuộc

  103. Nguyễn Thân
    (1854 - 1914) Võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, là cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương.
  104. Mãi quốc
    Bán nước (từ Hán Việt).
  105. Chừng mô
    Chừng nào (phương ngữ Trung Bộ).
  106. Sơn băng thủy kiệt
    Núi lở, sông cạn (thành ngữ Hán Việt). Tiếng Việt ta có thành ngữ tương tự là sông cạn đá mòn, thường dùng để thề nguyền. Ở một số ngữ cảnh, đây được coi là điềm báo đất nước sắp gặp họa lớn, dân chúng phải lầm than khổ sở.
  107. Tức năm 1897.
  108. Chùa Lãng Đông
    Tên một ngôi chùa ở thôn Lãng Đông, nay thuộc địa phận xã Trà Giang, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Tại chùa này vào năm 1897 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp do trụ trì là thiền sư Thích Thanh Thụ khởi xướng.

    Tam quan chùa Lãng Đông

    Tam quan chùa Lãng Đông

  109. Quyên giáo
    Kêu gọi quyên góp về tiền của và công sức để làm những công việc liên quan đến đạo Phật.
  110. Năng Nhượng
    Tên một xã trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.
  111. Trực Tầm
    Một xã trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.
  112. Đồng Xâm
    Một làng nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái, tỉnh Thái Bình. Làng có nghề chạm bạc truyền thống. Hằng năm làng tổ chức lễ hội vào các ngày 1-5 tháng 4 âm lịch.

    Chạm bạc ở Đồng Xâm

    Chạm bạc ở Đồng Xâm

  113. Đắc Chúng
    Tên một làng trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương.
  114. Dục Dương
    Một làng trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.
  115. Nghĩa sĩ
    Người anh dũng dấn thân vì việc nghĩa.
  116. Thiên binh, thần tướng
    Binh lính (của) trời, tướng (là) thần. Chỉ quân đội mạnh mẽ, anh dũng.
  117. Công sứ
    Chức danh cai trị của người Pháp trong thời kì Pháp thuộc, đứng đầu một tỉnh.
  118. Thái Bình
    Địa danh nay là một tỉnh ven biển ở đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 110 km. Phần đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay trước đây thuộc về trấn Sơn Nam. Tới năm Thành Thái thứ hai (1890) tỉnh Thái Bình được thành lập. Tỉnh có nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như bãi biển Đồng Châu, cồn Vành, chùa Keo... Các ngành nghề truyền thống như chạm bạc, làm chiếu ở đây cũng khá phát triển. Ngoài ra, Thái Bình còn được mệnh danh là Quê Lúa.

    Bãi biển Đồng Châu

    Bãi biển Đồng Châu

  119. Sa cơ
    Lâm vào tình thế rủi ro, khốn đốn.
  120. Bài vè này nói về cuộc nổi dậy chống Pháp tại chùa Lãng Đông, tỉnh Thái Bình. Tháng 11 âm lịch năm Đinh Dậu (1897), hưởng ứng phong trào Cần Vương, trụ trì chùa là nhà sư Thích Thanh Thụ đã lãnh đạo số binh sĩ lên đến trên 200 người từ các xã Trà Giang, Hồng Thái, Quốc Tuấn thuộc vùng tổng Đồng Xâm, theo bờ sông Trà Lý tiến về thị xã Thái Bình đánh thẳng vào dinh công sứ. Tuy nhiên, do lực lượng quá chênh lệch, cuộc bạo động mau chóng thất bại. Thiền sư cùng 21 nghĩa binh bị giặc Pháp bắt đưa về gò Mống chặt đầu, sau đó thủ cấp bị treo lên để thị chúng.
  121. Dị sự
    Chuyện lạ thường (từ Hán Việt).
  122. Vắn
    Ngắn (từ cổ).

    Tự biệt nhiều lời so vắn giấy
    Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền

    (Bỏ vợ lẽ cảm tác - Nguyễn Công Trứ)

  123. Loan phụng hòa minh
    Chim loan, chim phượng cùng hót. Chỉ vợ chồng hòa thuận, thương yêu nhau.
  124. Thung dung
    Thong dong.
  125. Thôn lân
    Làng xóm láng giềng (từ Hán Việt).
  126. Lao lung
    Khổ cực (từ cổ).
  127. Thất phát
    Cũng như thất bát – mất mùa.
  128. Nàn
    Nạn (từ cũ).
  129. Đoạn trường
    Đau đớn như đứt từng khúc ruột (đoạn: chặt đứt, trường: ruột). Theo Sưu thần kí, có người bắt được hai con vượn con, thường đem ra hiên đùa giỡn. Vượn mẹ ngày nào cũng đến ở trên cây gần đầu nhà, kêu thảm thiết. Ít lâu sau thì vượn mẹ chết, xác rơi xuống gốc cây. Người ta đem mổ thì thấy ruột đứt thành từng đoạn.
  130. Túng tíu
    Túng thiếu (từ cũ).
  131. Thét
    Chịu đựng lâu thành quen (phương ngữ).
  132. Kế tự
    Nối dõi (từ Hán Việt).
  133. Bình dân học vụ
    Tên một phong trào do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động sau cách mạng tháng Tám để xóa nạn mù chữ (diệt giặc dốt), có sử dụng các câu văn vần mô tả bảng chữ cái cho dễ thuộc: I, tờ (t), có móc cả hai. I ngắn có chấm, tờ dài có ngang

    Từ "i tờ" về sau chỉ trình độ học vấn vỡ lòng.

    Bình dân học vụ

    Bình dân học vụ

  134. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
    Tên một nhà nước được Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập năm 1945, tồn tại cho đến sau 1976 thì sáp nhập với nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Xem thêm.

    Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

    Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

  135. Lía
    Dân gian còn gọi là chàng Lía, chú Lía, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách thống trị của nhà Nguyễn vào thế kỉ 18 nổ ra tại Truông Mây, Bình Định. Có giả thuyết cho rằng ông tên thật là Võ Văn Doan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn). Lía tập hợp dân nghèo nổi dậy, chọn Truông Mây (Hoài Ân, Bình Định) làm căn cứ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tương truyền sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông uất ức bỏ lên núi và tự sát.
  136. Anh hào
    Anh hùng hào kiệt, người có tài năng, chí khí. Hội anh hào là dịp để anh hào gặp và thi thố lẫn nhau để lập nên những công trạng hiển hách.

    Đường đường một đấng anh hào,
    Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.

    (Truyện Kiều)

  137. Sơn hà
    Núi sông (từ Hán Việt). Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước.

    Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
    Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

    (Lý Thường Kiệt)

    Dịch thơ:

    Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành định phận tại sách trời
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

  138. Chiêu binh mãi mã
    Chiêu mộ binh lính và mua ngựa chiến (để chuẩn bị cho chiến tranh). Hiểu rộng ra là tập hợp lực lượng, vây cánh.
  139. Dung
    Biết là việc xấu, sai nhưng vẫn để tồn tại.
  140. Lâu la
    Từ chữ Hán 嘍囉, chỉ quân lính, tay chân của giặc cướp.
  141. Trào đàng
    Triều đình (cách nói cũ của Trung và Nam Bộ).

    Trạng nguyên tâu trước trào đàng,
    Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.

    (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)

  142. Bá quan
    Từ chữ Hán Việt 百 (trăm), và quan 官 (quan lại), chỉ tất cả các quan lại trong triều đình. Cũng nói là bá quan văn võ.
  143. Ngự sử
    Tên chung của một số chức quan có nhiệm vụ giám sát từ cấp cao nhất (vua) đến các cấp quan lại.
  144. Đàng
    Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  145. Phú hào
    Những người giàu và có thế lực ở nông thôn thời phong kiến (từ Hán Việt).
  146. Ngờ (phương ngữ Nam Bộ).
  147. Binh nhung
    Binh 兵 (binh lính) và nhung 戎 (vũ khí, binh lính). Chỉ binh khí, quân đội, hoặc hiểu rộng ra là việc quân.
  148. Nam hoàng
    Vua nước Nam.
  149. Quản
    E ngại (từ cổ).
  150. Bảo Đại
    (1913-1997) Hoàng đế thứ mười ba và cuối cùng của triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta, đồng thời cũng là quốc trưởng đầu tiên của Đế quốc Việt Nam (3/1945) và Quốc gia Việt Nam (7/1949). Ông sinh tại Huế, là con vua Khải Định, có tên huý là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Ông có một câu nói nổi tiếng khi chính thức thoái vị và trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho cách mạng vào ngày 23 tháng 8 năm 1945: Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Cuối đời ông sống lưu vong tại Pháp và qua đời trong lặng lẽ vào ngày 31 tháng 7 năm 1997, thọ 85 tuổi.

    Vua Bảo Đại

    Vua Bảo Đại

  151. Le Mur
    Pháp âm là "lơ-muya," một kiểu áo dài cách tân do họa sĩ Cát Tường (nghệ danh là Le Mur Cát Tường) tung ra vào những năm 1930. Áo Le Mur lấy cảm hứng từ chiếc váy của phương Tây với nối vai, tay phồng, cổ lá sen..., đặc biệt những màu thâm, nâu, đen của áo dài truyền thống được thay bằng màu sắc sặc sỡ, tương sáng mặc kết hợp với quần trắng. Sau khi thịnh hành một vài năm, đến năm 1934, họa sĩ Lê Phổ cải tiến kiểu áo theo cách dung hòa giữa váy phương Tây với áo tứ thân truyền thống (gọi là áo "Lê Phổ"), áo Le Mur bớt phổ biến dần.

    Đám cưới họa sĩ Cát Tường, Bắc Ninh 1936. Chú rể đứng phía trái, đang giang hai tay. Cô dâu Nguyễn Thị Nội mặc áo trắng, đi bên cạnh phù dâu, đều mặc áo Le Mur.

    Đám cưới họa sĩ Cát Tường, Bắc Ninh 1936. Chú rể đứng phía trái, đang giang hai tay. Cô dâu Nguyễn Thị Nội mặc áo trắng, đi bên cạnh phù dâu, đều mặc áo Le Mur.

  152. Bóp phơi
    Cũng đọc trại thành bóp (bót) tơ phơi, từ chữ tiếng Pháp portefeuille, nghĩa là cái ví tiền. Đây cũng là gốc của từ "bóp," được dùng nhiều ở miền Nam.
  153. Ô cánh dơi
    Ô (dù) hình khum, những múi ô khi mở ra trông giống cánh con dơi căng ra, xưa kia nam giới thường dùng.
  154. Hồi đó, ngay tại thủ đô Huế, nơi có triều đình Việt Nam và Toà Khâm Sứ Pháp, một số các cô tân thời hay mặc "mốt" áo Le Mur. Dân Huế do đó mà có bài vè này.
  155. Lính mộ
    Lính được chiêu mộ. Từ này thường dùng để chỉ những người bị thực dân Pháp gọi (mộ) đi lính trước đây.

    Lính khố đỏ.

    Lính khố đỏ.

  156. Phên
    Đồ đan bằng tre, nứa, cứng và dày, dùng để che chắn. Một số vùng ở Bắc Trung Bộ gọi là phên thưng, bức thưng.

    Tấm phên

    Tấm phên

  157. Mần răng
    Làm sao (phương ngữ Trung Bộ).
  158. Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
  159. Vạn tử nhất sinh
    Vạn phần chết, một phần sống (thành ngữ Hán Việt).
  160. Bể
    Biển (từ cũ).
  161. Đội
    Một chức vụ trong quân đội thời thực dân Pháp, tương đương với tiểu đội trưởng hiện nay (Đội Cung, Đội Cấn...).
  162. Quy tế
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Quy tế, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  163. Diên
    Tiệc rượu (từ Hán Việt).
  164. Tức 30/8/1917 dương lịch, ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do đội Cấn chỉ huy.
  165. Can qua
    Can 干 chữ Hán nghĩa là cái mộc để đỡ. Qua 戈 là cây mác, một loại binh khí ngày xưa. Can qua chỉ việc chiến tranh.
  166. Thái Nguyên
    Một tỉnh ở miền Bắc nước ta, nổi tiếng với nghề trồng và chế biến chè (trà).

    Đồi chè Thái Nguyên

    Đồi chè Thái Nguyên

  167. Lính tập
    Một lực lượng vũ trang của chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương, theo chính sách dùng người bản xứ làm quân đội chính quy trong việc đánh dẹp. Lính tập gồm lính khố đỏ, lính khố xanh, lính khố vàng, lính khố lục, những tên gọi xuất phát từ màu dải thắt lưng họ quấn quanh quân phục.

    Lính tập (Tập binh 習兵)

    Lính tập (Tập binh 習兵)

  168. Có bản chép: Rủ nhau.
  169. Đội Cấn
    Tên thật là Trịnh Văn Cấn (1881 - 1918), người làng Yên Nhiên, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, nay thuộc xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông còn có tên khác là Trịnh Văn Đạt, là viên đội lính khố xanh trong cơ binh Pháp ở Thái Nguyên. Ông cùng Lương Ngọc Quyến - một chí sĩ yêu nước bị giam tại nhà tù ở Thái Nguyên - lãnh đạo binh lính người Việt đứng lên chống Pháp vào đêm 30/8/1917. Từ đó đến ngày 5/9, các cuộc tấn công của địch liên tiếp nổ ra. Do không chống nổi lực lượng của địch, nghĩa quân phải rút lui. Ngày 10/1/1918, trong trận chiến đấu với quân Pháp tại núi Pháo, Đội Cấn bị thương nặng và tự sát.

    Di ảnh Đội Cấn

    Di ảnh Đội Cấn

  170. Cai
    Từ gọi tắt của cai vệ, chức danh chỉ huy một tốp lính dưới thời thực dân Pháp.

    Lính lệ

    Lính lệ

  171. Theo lệnh của Đội Cấn, Đội Trường đã tiêu diệt Giám binh Noen, Ba Chén giết tên Phó quản Lạp và 7-8 binh sĩ chống đối.
  172. Nhà pha
    Nhà tù (từ cũ). Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ tiếng Pháp bagne, nghĩa là giam cầm.
  173. Thị thường
    Xem thường.
  174. Tài bồi
    Vun đắp, vun trồng (từ Hán Việt).
  175. Nam bang
    Bờ cõi nước Nam.
  176. Nghĩa quân sử dụng quân kì màu vàng đề bốn chữ "Nam binh phục quốc."
  177. Tự Đức
    (1829 – 1883) Vị hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến nước ta. Thời gian ông ở ngôi đánh dấu nhiều sự kiện trong lịch sử nước ta, trong đó quan trọng nhất là tháng 8/1858, quân Pháp nổ phát súng đầu tiên tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho thời kì thống trị của người Pháp ở Việt Nam.

    Vua Tự Đức

    Vua Tự Đức

  178. Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi.
  179. Mần
    Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
  180. Răng
    Sao (phương ngữ Trung Bộ).
  181. Bình Trung
    Tên một làng nay là ấp Bình Trung, xã Thạnh Nhựt, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
  182. Dương Phước
    Tên một thôn xưa thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công, nay thuộc xã Phước Trung, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
  183. Bậu
    Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
  184. Qua
    Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín).
  185. Thành Nội
    Bên trong Kinh thành Huế.

    Hoàng thành Huế

    Hoàng thành Huế

  186. Có ý kiến cho rằng bài ca dao này nhắc đến chuyện tình của vua Bảo Đại và bà Nguyễn Hữu Thị Lan, người gốc Gò Công (sau bà trở thành Nam Phương Hoàng Hậu).
  187. Sông Bé
    Địa danh trước kia là một tỉnh của miền Đông Nam Bộ. Tỉnh Sông Bé được thành lập năm 1976, đến năm 1997 thì tách ra thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước.
  188. Chợ Gò Công
    Tên ngôi chợ cũ thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang, nay đã được dời về vị trí cách đó chừng 100m, dưới chân cầu Long Chánh.
  189. Bánh cuốn
    Loại bánh làm từ bột gạo hấp tráng mỏng, ăn khi còn ướt, bên trong cuốn nhân (bánh không có nhân ở miền Nam gọi là bánh ướt). Bánh thường ăn với một loại nước chấm pha nhạt từ nước mắm và nếu là bánh cuốn truyền thống thì không thể thiếu tinh dầu cà cuống pha trong nước chấm, khi ăn thường kèm thêm giò, chả lụa, hay chả quế. Bánh cuốn Thanh Trì có lẽ là nổi tiếng nhất, không chỉ ở Hà Nội mà còn trên cả nước.

    Bánh cuốn Thanh Trì

    Bánh cuốn Thanh Trì

  190. Bánh xèo
    Một loại bánh làm bằng bột, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá, đúc hình tròn. Tùy theo mỗi vùng mà cách chế biến và thưởng thức bánh xèo có khác nhau. Ở Huế, món ăn này thường được gọi là bánh khoái và thường kèm với thịt nướng, nước chấm là nước lèo gồm tương, gan, đậu phộng. Ở miền Nam, bánh có cho thêm trứng, chấm nước mắm chua ngọt. Ở miền Bắc, nhân bánh xèo còn có thêm củ đậu thái mỏng hoặc khoai môn thái sợi. Các loại rau ăn kèm với bánh xèo rất đa dạng gồm rau diếp, cải xanh, diếp cá, tía tô, rau húng, lá quế, lá cơm nguội non...

    Bánh xèo

    Bánh xèo

  191. Bánh khô
    Còn gọi là bánh khô mè, hoặc bánh khô khổ, là một loại bánh miền Trung, làm từ bột gạo nếp, đường và mè.

    Bánh khô mè Cẩm Lệ - Quảng Nam

    Bánh khô mè Cẩm Lệ - Quảng Nam

  192. Bánh nổ
    Một loại bánh đặc sản của miền Trung. Bánh làm bằng gạo nếp rang cho nổ bung ra (nên có tên là bánh nổ), trộn với nước đường nấu sôi và gừng giã nhỏ, cho vào khuôn hình chữ nhật. Bánh ăn có vị ngọt của đường, bùi của nếp và cay của gừng.

    Bánh nổ

    Bánh nổ

  193. Bánh bèo
    Một món bánh rất phổ biến ở miền Trung và miền Nam. Bánh làm từ bột gạo, có nhân phía trên mặt bánh làm bằng tôm xay nhuyễn. Nước chấm bánh bèo làm từ nước mắm, và thường đổ trực tiếp vào bánh chứ không cần chấm. Thành phần phụ của bánh bèo thường là mỡ hành, đậu phộng rang giã nhỏ. Tuỳ theo địa phương, có những cách thêm bớt khác nhau cho món bánh này, ví dụ ở Sài Gòn thường bỏ đậu xanh, đồ chua, lại cho ăn kèm bánh đúc, bánh ít, bánh bột lọc...

    Bánh bèo

    Bánh bèo

  194. Mắm tôm chà
    Một loại mắm đặc sản của Gò Công. Nguyên liệu làm mắm là tôm đất có nhiều gạch son. Tôm được làm sạch rồi ướp gia vị, cho vào cối quết nhuyễn rồi cho vào rổ và chà mạnh để vỏ tôm tách khỏi thịt. Sau khi phơi nắng, tôm được chà qua rây (lưới lỗ li ti) để ép lấy phần thịt tôm, cho gia vị vào, đem phơi nắng tiếp và lại để tiếp trong mát chừng nửa tháng nữa thì ăn được.

    Làm mắm tôm chà

    Làm mắm tôm chà

  195. Sài Gòn
    Nay là thành phố Hồ Chí Minh, thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của nước ta. Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Năm 1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Sau 1975, Sài Gòn được đổi tên thành "Thành phố Hồ Chí Minh," nhưng người dân vẫn quen gọi là Sài Gòn.

    Chợ Bến Thành, một trong những biểu tượng của Sài Gòn

    Chợ Bến Thành, một trong những biểu tượng của Sài Gòn

    Sài Gòn về đêm

    Sài Gòn về đêm

  196. Mỹ Tho
    Thành phố tỉnh lị thuộc tỉnh Tiền Giang. Tên gọi này bắt nguồn từ tiếng Khmer srock mé sa, mi so, nghĩa là "xứ có người con gái nước da trắng." Lịch sử hình thành của vùng đất này bắt nguồn từ khoảng thế kỷ 17, một nhóm người Minh Hương di cư từ Trung Quốc đã được chúa Nguyễn cho về định cư tại đây và lập nên Mỹ Tho đại phố. Đô thị này cùng với Cù Lao Phố (thuộc Biên Hòa, Đồng Nai ngày nay) là hai trung tâm thương mại lớn nhất tại Nam Bộ lúc bấy giờ. Trải qua nhiều lần bị chiến tranh tàn phá, Mỹ Tho đại phố mất dần vai trò trung tâm thương mại về tay của vùng Sài Gòn - Bến Nghé.

    Thành phố Mỹ Tho hiện nay là một đầu mối giao thông quan trọng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và có thế mạnh về thương mại - dịch vụ và du lịch. Một trong những đặc sản nổi tiếng nhất của Mỹ Tho là hủ tiếu.

    Thành phố Mỹ Tho hiện nay

    Thành phố Mỹ Tho hiện nay

    Hủ tiếu Mỹ Tho

    Hủ tiếu Mỹ Tho

  197. Gió độc Gò Công
    Một tên gọi dân gian của trận bão năm Giáp Thìn (1904).
  198. Châu Đốc
    Địa danh nay là thị xã của tỉnh An Giang, nằm sát biên giới Việt Nam - Campuchia và cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km về phía Tây. Châu Đốc nổi tiếng vì có nhiều món ăn ngon và nhiều di tích lịch sử. Dưới thời Pháp thuộc, Châu Đốc là điểm khởi đầu thủy trình đến Nam Vang.

    Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo."

    Đêm Châu Đốc

    Đêm Châu Đốc

  199. Chợ Gạo
    Một huyện thuộc tỉnh Tiền Giang. Nơi đây có con sông Chợ Gạo là tuyến đường sông huyết mạch nối giữa thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

    Kênh Chợ Gạo

    Kênh Chợ Gạo

  200. Gá duyên
    Kết thành nghĩa vợ chồng.
  201. Bùi Kiệm
    Tên một nhân vật phản diện trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Y và Trịnh Hâm là bạn đồng hành của Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực và Hớn Minh khi lên kinh ứng thí, nhưng rất ghen ghét và đố kị tài năng của Lục Vân Tiên. Sau này, Trịnh Hâm lừa đẩy Lục Vân Tiên xuống sông, còn Bùi Kiệm thì ép Kiều Nguyệt Nga phải lấy mình. Về cuối truyện, Lục Vân Tiên thành trạng nguyên, Hớn Minh đòi giết Trịnh Hâm và Bùi Kiệm, nhưng Vân Tiên truyền thả, đuổi về quê.

    Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
    Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
    Còn người Bùi Kiệm máu dê,
    Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.

  202. Lục Vân Tiên
    Tên nhân vật chính, đồng thời là tên tác phẩm truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19, đề cao đạo lý làm người. Lục Vân Tiên là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ, cùng với Kiều Nguyệt Nga, một người con gái chung thủy, đức hạnh trải qua nhiều sóng gió nhưng cuối cùng cũng đạt được hạnh phúc.

    Đối với người dân Nam Bộ, truyện Lục Vân Tiên có sức ảnh hưởng rất lớn, được xem là hơn cả Truyện Kiều của Nguyễn Du.

  203. Đông sàng
    Cái giường ở phía Đông. Thời nhà Tấn ở Trung Quốc, quan thái úy Khích Giám muốn lấy chồng cho con gái mình, liền sai người qua nhà Vương Đạo có nhiều con cháu để kén rể. Các cậu con trai nghe tin, ra sức ganh đua nhau, chỉ có một người cứ bình thản nằm ngửa mà ăn bánh trên chiếc giường ở phía đông. Người ta trở về nói lại, ông khen "Ấy chính là rể tốt" và gả con cho. Người con trai ấy chính là danh nhân Vương Hi Chi, nhà thư pháp nổi danh bậc nhất Trung Quốc, được mệnh danh là Thư thánh. Chữ đông sàng vì vậy chỉ việc kén rể giỏi giang.

    Vương Hi Chi

    Vương Hi Chi