Đã lâu không gặp bạn vàng
Nay gặp bạn vàng lòng càng thêm tủi
Nghĩ đến ân tình gió thổi mây bay
Kể từ ngày xa cách đến nay
Lòng em ngơ ngẩn đắng cay muôn phần
Còn gì mà đợi, mà trông
Còn gì qua lại ân cần anh ơi
Anh có vợ rồi như đũa có đôi
Để em lơ lửng mồ côi một mình
Tìm kiếm "đưa về dinh"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Sáng mai anh thức dậy
- 
        
        
        
    
    Anh đứng ở Nha Trang
- 
        
        
        
    
    Em chưa có chồng chân rời tay rảnh
- 
        
        
        
    
    Nhờ ai cho gà đỏ đuôiNhờ ai cho gà đỏ đuôi 
 Nhờ ai mà được cưỡi voi, ngồi thuyền
 Nhờ ai có bạc, có tiền
 Nhờ ai mà có nàng tiên đứng hầu
 Nhờ ai có ruộng, có trâu
 Nhờ ai mà có mâm thau, đũa ngà
 Nhờ ai có lụa, có là
 Vợ gọi bằng bà, con gọi cậu, cô
 Đến khi giặc Pháp tràn vô
 Quan nhỏ tếch mất, quan to chạy dài
 Ai ơi, có thế chăng ai?
- 
        
        
        
    
    Kể từ mộ lính đi Tây
- 
        
        
        
    
    Tam tòng tích cũ còn ghi
- 
        
        
        
    
    Vô duyên lấy phải chồng giàVô duyên lấy phải chồng già 
 Ra đường bạn hỏi rằng cha hay chồng?
 Nói ra đau đớn trong lòng
 Chính thực là chồng có phải cha đâu.
 Ngày ngày vác cối giã trầu
 Tay thời rót nước, tay hầu cái tăm.
 Đêm đêm đưa lão đi nằm
 Thiếp đặt lão xuống, lão nằm trơ trơ.
 Hỡi ông lão ơi! Ông trở dậy cho thiếp tôi nhờ
 Để thiếp tôi kiếm chút con thơ bế bồng.
 Nữa mai người có thiếp không
 Xấu hổ với chúng bạn, cực lòng mẹ cha.Dị bản- Vô duyên vô phúc húc phải ông chồng già 
 Ra đường bị hỏi là cha hay chồng?
 Nói ra đau đớn trong lòng
 Ấy cái nợ truyền kiếp, chớ phải chồng em đâu!
- Tốt số lấy được chồng già 
 Ra đường bạn hỏi: Ông gia hay chồng?
 Không nói ra thì cực trong lòng
 – Ông gia tôi đó, nỏ phải chồng tôi đâu
 Cơm xong, múc nước, nhai trầu
 Đêm tắt đèn đi ngủ, hàm râu ông kề vào
 Tôi xê ra ông lại xịch vào
 Phận tôi là gái má đào mắt xanh
 Lẽ nào kêu cố bằng anh?
 
- 
        
        
        
    
    Con tôi buồn ngủ buồn nghêCon tôi buồn ngủ buồn nghê 
 Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
 Nhà còn có một quả cà
 Làm sao đủ miếng cơm và cho con
 Con tôi khóc héo, khóc hon
 Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa
 Con thèm phẩm oản trên chùa
 Con thèm chuối ngự tiến vua của làng
 Con thèm gạo cốm làng Ngang
 Con thèm ăn quả dưa gang làng Quài
 Con thèm cá mát canh khoai
 Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng
 Con thèm đuôi cá vây bông
 Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao
- 
        
        
        
    
    Sáng ngày tôi đi hái dâu
- 
        
        
        
    
    Cò bắt lươn cò trườn xuống cỏCò bắt lươn cò trườn xuống cỏ 
 Lươn bắt cò cò bỏ cò bay
 Từ ngày xa bạn đến nay
 Đêm đêm tưởng nhớ, ngày ngày trông luôn
 Kể từ Cầu Ván, Ao Vuông
 Bước qua Quán Ốc lòng buồn lụy sa
 Quán Cơm nào quán nào nhà
 Ngóng ra Trà Khúc trời đà rạng đông
 Buồn lòng đứng dựa ngồi trông
 Ngó vô Hàng Rượu mà không thấy chàng
- 
        
        
        
    
    Thấy anh áo lượt xênh xangThấy anh áo lượt xênh xang 
 Đồng hồ quả quít, nhẫn vàng đeo tay
 Cái ô lục soạn cầm tay
 Cái khăn xếp nếp, cái dây lưng điều
 Các cô trông thấy mĩ miều
 Chạy theo thỏ thẻ những điều nhỏ to
 Thôi đừng chuyện nhỏ chuyện to
 Đến tháng lĩnh bạc anh cho vài đồng
 Mồ cha những đứa nói không
 Đến tháng lĩnh bạc một đồng chẳng cho
- 
        
        
        
    
    Đêm nằm tôi nghĩ tôi rầuĐêm nằm tôi nghĩ tôi rầu 
 Làm dâu thật khổ từ đầu chí đuôi
 Ra thân tối mặt vùi đầu
 Các chị sung sướng riêng dâu mẹ hành
 Chê tôi khờ dại không lanh
 Mẹ đào mẹ chửi mẹ hành xót xa
 Công trình mẹ cha tôi đẻ tôi ra
 Gả cho con mẹ còn bù của thêm
 Phải thời chồng vợ trọn niềm
 Sui gia đi lại ấm êm ở đời
 Không nên mỗi đứa mỗi nơi
 Tôi ra khỏi cửa để mẹ kiếm nơi sang giàu
 Ở chi đây, mẹ mắng trước chửi sau
 Ngày nào mẹ cũng cứ nghèo giàu mẹ đay
- 
        
        
        
    
    Con chim tra trả, ai vay mà trả
- 
        
        
        
    
    Cúc đang xanh, sao cúc vội tàn,
- 
        
        
        
    
    Thấy anh nhiều ngôn ngữThấy anh nhiều ngôn ngữ 
 Em đây kết chữ thốt lên lời:
 Sao trên trời sao lên mấy cái?
 Nhái ngoài đồng bắt cặp mấy con?
 Cây chuối con ốp tròn mấy bẹ?
 Cây chuối mẹ tủa mấy tàu?
 Trai nam nhơn anh mà đối đặng
 Thời gái tơ đào em đưa má cho anh hun!Thấy em hỏi bức 
 Đây anh đối lức kẻo em lừng:
 Sao trên trời, sao vua chín cái
 Nhái ngoài đồng bắt cặp hai con
 Cây chuối con ốp tròn tám bẹ
 Cây chuối mẹ màu mười tàu
 Trai nam nhơn anh đà đối đặng
 Vậy gái quần hồng em phải đưa má cho anh!
- 
        
        
        
    
    Trồng tre cho biết thứ treTrồng tre cho biết thứ tre 
 Thứ tre mình nguộc, thứ tre mình ngà
 Trồng cà cho biết thứ cà
 Thứ cà tim tím, thứ cà xanh xanh
 Trồng chanh cho biết thứ chanh
 Thứ chanh ăn mắm, thứ chanh gội đầu
 Trồng trầu cho biết thứ trầu
 Thứ trầu đãi khách, thứ trầu đưa dâu
 Trồng dâu cho biết thứ dâu
 Thứ dâu ăn trái, thứ dâu để tằm
- 
        
        
        
    
    Đồn rằng Văn Điển vui thayĐồn rằng Văn Điển vui thay 
 Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
 Tàu qua phố dưới, phố trên
 Đình thì ở giữa hai bên rặng bàng
 Làng Mơ cất rượu khê nồng
 Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
 Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
 Làng Lê bán phấn cho người tốt da
 Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
 Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
 Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
 Trên Ô Hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
 Ngâu, Tựu thì bán dao phay
 Dù đem chặt nứa gãy cây lại liền
 Trong kho lắm bạc nhiều tiền
 Để cho giấy lại chạy liền với dây.
- 
        
        
        
    
    Các chị gần xách nước bằng bình
- 
        
        
        
    
    Vợ tôi nó giỏi vô songVợ tôi nó giỏi vô song 
 Chưa kịp tới chợ đã mong ăn hàng
 Sớm mai cất gánh lên đàng
 Làm vài tô cháo vững vàng bước đi
 Vừa ưa chị bán củ mì
 Ba đồng một mớ vậy thì mua cho
 Ghé qua hàng bán bánh bò
 Cuốn với bánh tráng ăn cho thẳng lèo
 Ba rọi cùng với lòng heo
 Bánh đúc, bánh xèo ưa đã quá ưa
 Bây giờ con bóng đã trưa
 Làm thêm trái dừa cho đỡ khô môi.
Chú thích
- 
    - Rựa quéo
- Thứ rựa nhỏ, cán dài, lưỡi cong, mũi nhọn.
 
- 
    - Núi Quẹo
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Núi Quẹo, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Quèo
- Khều, móc (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Nhum
- Cũng gọi là cầu gai, một loại động vật thân mềm, có gai vỏ dài, sống ở những gành đá ven bờ biển nước ấm, lẫn trong rong rêu. Thịt nhum có thể ăn tươi, kho ăn với cơm, trộn trứng chưng cách thủy, nhưng ngon nhất là làm mắm. Mắm nhum sền sệt, mầu đỏ đục, thơm lựng, từng là đặc sản tiến vua xưa của người dân Quảng Ngãi.
 
- 
    - Nha Trang
- Một địa danh thuộc tỉnh Khánh Hòa, hiện là một thành phố biển nổi tiếng không chỉ ở nước ta mà trên cả thế giới về du lịch biển, đồng thời là một trong những trung tâm kinh tế của cả nước. 
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là "sông Lau," tiếng người Chăm gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, vì chỗ con sông này đổ ra biển mọc rất nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653. 
 
- 
    - Xóm Bóng
- Còn gọi là bến Bóng, một địa danh thuộc thành phố Nha Trang. Xóm Bóng gồm hai phần: một nằm bên bờ sông Cái, nơi sông đổ ra biển Đông qua cửa Lớn, và phần còn lại là cù lao trên sông. Giữa hai phần này là cầu xóm Bóng, đứng trên cầu có thể thấy tháp Bà Ponagar, thắng cảnh nổi tiếng của Khánh Hòa.
Tên xóm Bóng bắt nguồn từ một thói quen của làng cù lao xưa: Vào các dịp lễ vía cúng bà, tức thánh Mẫu Thiên Y A Nam, những "cô bóng, bà bóng" của làng lại tập trung múa hát. 
 
- 
    - Hòn Chữ
- Một tảng đá lớn có những tảng nhỏ sát cạnh nằm ở cửa sông Cái (Nha Trang), chu vi chừng 100 m2, cao từ mặt nước lên khoảng vài mét, thường làm du khách chú ý khi đi dọc theo cầu Xóm Bóng hay từ trên khuôn viên Tháp Bà nhìn xuống hướng Đông Nam. Trên đá có in khắc chữ, một lối chữ hình giống như những con nòng nọc nối đuôi nhau, được cho là chữ cổ của người Chiêm Thành xưa.
 
- 
    - Răng
- Sao (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Rứa
- Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Bá niên
- Trăm năm (từ Hán Việt).
 
- 
    - Đồng thau
- Hợp kim của đồng và kẽm. Đồng thau có màu khá giống màu của vàng, nên khi xưa thường được dùng để đúc đồ trang trí hay làm tiền xu. Tuy nhiên, khi hơ lửa đồng thau sẽ bị xỉn màu (do bị oxy hóa) còn vàng thì không.
 
- 
    - Tếch
- Bỏ đi, chuồn đi.
 
- 
    - Mộ
- Tuyển.
 
- 
    - Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
 
- 
    - Tam tòng
- Những quy định mang tính nghĩa vụ đối với người phụ nữ phương Đông trong xã hội phong kiến ngày trước, xuất phát từ các quan niệm của Nho giáo. Tam tòng bao gồm:
Tại gia tòng phụ: khi còn nhỏ ở với gia đình phải theo cha, 
 Xuất giá tòng phu: khi lập gia đình rồi phải theo chồng,
 Phu tử tòng tử: khi chồng qua đời phải theo con.
 
- 
    - Ông gia
- Bố chồng hoặc bố vợ (cách gọi ở một số địa phương miền Trung).
 
- 
    - Nỏ
- Không, chẳng (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Cố
- Gắng, gắng gượng (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Kê
- Cây lương thực cùng họ với lúa, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, tập trung thành một bông dài.
 
- 
    - Thị
- Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được.
Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng. 
 (Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh)
 
- 
    - Trôn
- Mông, đít, đáy (thô tục).
 
- 
    - Oản
- Bánh làm bằng xôi nếp hoặc bột bánh khảo nén vào khuôn hình nón cụt để cúng.
 
- 
    - Chuối ngự
- Chuối quả nhỏ, khi chín vỏ rất mỏng, màu vàng, thịt chắc và thơm. Xưa kia giống chuối này được đem tiến vua nên có tên gọi là chuối ngự.
 
- 
    - Làng Ngang
- Tên một làng nay thuộc xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
 
- 
    - Làng Quài
- Chợ Quài, thuộc xã Thái Hà, Thái Thụy, Thái Bình.
 
- 
    - Cá mát
- Một loại cá nước ngọt, mình có từ ba đến sáu chấm đen, vây màu hồng. Cá mát nhỏ con chỉ bằng hai ba ngón tay người lớn. Con to nhất cũng chỉ nặng từ 0,5kg đến 0,8kg. Cá sống từng đàn ở các khe đá và nơi nước chảy xiết, thường bơi kiếm ăn vào ban đêm. Bắt đầu từ tháng 8 âm lịch là mùa cá mát. 
Cá mát vừa lành vừa bổ, thịt thơm ngon, mỡ béo, ít xương, tốt cho sức khỏe. Ở nước ta, cá mát có nhiều ở sông Giăng, Nghệ An, và được xem là đặc sản Nghệ An. 
 
- 
    - Bí
- Loại cây dây leo được trồng mọc trên giàn để lấy quả. Tương tự như bầu, quả, hoa, hạt và đọt bí được dùng làm thức ăn. Hai loại bí thường gặp nhất là bí xanh (còn gọi là bí đao, bí dài, bí chanh) và bí đỏ (bí rợ).
 
- 
    - Thạch bàn
- Phiến đá lớn, phẳng như cái mâm.
 
- 
    - Bác mẹ
- Cha mẹ (từ cổ).
 
- 
    - Cầu Ván
- Cầu bắc ngang qua sông Bến Ván, một con sông chảy qua huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
 
- 
    - Ao Vuông
- Một địa danh nằm ở phía bắc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Trước kia, đây là vùng cây cối rậm rạp, nhiều giặc cướp và thú dữ.
 
- 
    - Quán Ốc
- Một địa danh nằm ở vùng giáp giới giữa Quảng Nam và Quảng Ngãi. Trước kia đây là nơi người dân thôn Trung An (nay thuộc xã Bình Thạnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) mang ốc đến đó bán đổi cho khách qua đường, lâu ngày thành tên.
 
- 
    - Lụy
- Nước mắt (phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ).
 
- 
    - Sa
- Rơi xuống (từ Hán Việt).
 
- 
    - Quán Cơm
- Tên một cái chợ nay thuộc thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
 
- 
    - Trà Khúc
- Tên con sông lớn nhất chảy qua các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi và đổ ra cửa Đại Cổ Lũy. Sông Trà Khúc và núi Thiên Ấn là biểu tượng của tỉnh Quảng Ngãi, còn gọi là vùng đất núi Ấn sông Trà.
 
- 
    - Hàng Rượu
- Tên một ngôi chợ ở thị trấn Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
 
- 
    - Lượt
- Một loại vải dệt thưa từ tơ tằm, mượt, rất mịn và mềm, thường nhuộm đen để may khăn hay may áo.
 
- 
    - Đồng hồ quả quýt
- Loại đồng hồ bỏ túi, có hình dáng tròn, nhỏ gọn trong lòng bàn tay, thường có dây xích nhỏ để móc vào ve áo hay lưng quần phòng mất cắp. Đồng hồ quả quýt được chế tạo từ thế kỉ 16, phổ biến cho đến cuối thế chiến thứ nhất, khi đồng hồ đeo tay ra đời.
 
- 
    - Lục soạn
- Thứ lụa mỏng, trơn, xưa hay dùng.
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh 
 Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng
 (Phú hỏng khoa Canh Tý - Tú Xương)
 
- 
    - Nói không
- Khoác lác, nói mà không làm, nói cho có.
 
- 
    - Công trình
- Công phu khó nhọc.
 
- 
    - Đay
- Nói đi nói lại cho bõ tức, với giọng điệu làm người ta khó chịu.
 
- 
    - Bói cá
- Tên chung của một số loài chim săn mồi có bộ lông rất sặc sỡ. Thức ăn chính của bói cá là cá, nhưng chúng có thể ăn cả các động vật nhỏ như ếch nhái, tôm, côn trùng, thằn lằn... Bói cá còn có các tên gọi khác như chim thầy bói, trả, tra trả, sả, thằng chài...
 
- 
    - Cây sưng
- Một loài cây có gai (nên cũng gọi là cây gai sưng), lá có thể dùng nấu canh hoặc làm món xào.
 
- 
    - Kiểng
- Cảnh (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Chữ "Cảnh" là tên của Nguyễn Phúc Cảnh (con cả của chúa Nguyễn Ánh), người được đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh nhà Tây Sơn, vì vậy được gọi trại ra thành "kiểng" để tránh phạm húy.
 
- 
    - Nhơn
- Nhân (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
 
- 
    - Tua rua
- Tên gọi dân dã trong tiếng Việt của cụm sao phân tán M45 trong chòm Kim Ngưu (Taurus), ở Việt Nam thường thấy được vào lúc sáng sớm đầu tháng 6 dương lịch. Tua Rua còn được nông dân đồng bằng Bắc Bộ gọi là Sao Mạ vì xuất hiện trên bầu trời vào thời vụ gieo mạ lúa mùa chính vụ. Trong bầu trời đêm thì mắt thường có thể nhìn thấy chín ngôi sao sáng nhất của cụm sao này, vì thế trong dân gian mới có câu "Sao Tua (Vua) chín cái nằm kề."
 
- 
    - Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
 
- 
    - Hồng quần
- Cái quần màu đỏ. Ngày xưa bên Trung Hoa phữ nữ thường mặc quần màu đỏ, nên chữ "hồng quần" còn được dùng để chỉ phụ nữ.
Phong lưu rất mực hồng quần, 
 Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Nguộc
- Ngọc (phương ngữ một số vùng Trung Bộ).
 
- 
    - Mắm
- Thức ăn làm bằng tôm cá sống ướp muối và để lâu ngày cho ngấu.
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Văn Điển
- Địa danh nay là một thị trấn thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Tại đây có nghĩa trang Văn Điển, một nghĩa trang lớn (rộng 182.304m2) được xây dựng vào năm 1957 và đóng cửa năm 2010.
 
- 
    - Đình
- Công trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng, và cũng là nơi hội họp của người dân trong làng.
 
- 
    - Bàng
- Một loài cây thân gỗ lớn, có tán lá rộng nên thường được trồng để lấy bóng râm và làm cảnh. Quả ăn được và có vị hơi chua. Vào mùa đông, lá bàng chuyển sang màu đỏ trước khi rụng.
 
- 
    - Kẻ Mơ
- Tên một vùng đất rộng lớn ở phía Đông Nam thành Thăng Long xưa, bao gồm Hoàng Mai, Tương Mai, Hồng Mai (sau đổi thành Bạch Mai vì kị húy vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm) và Mai Động ngày nay. Làng Hoàng Mai có rượu cúc và rượu mơ rất nổi tiếng, nên gọi là làng Mơ Rượu. Làng Mai Động lại có nghề làm đậu phụ rất ngon, gọi là Mơ Đậu. Còn ở làng Tương Mai, các nhà ven đường đều mở hàng cơm, nên có tên khác là Mơ Cơm.
 
- 
    - Yên Duyên
- Tên nôm là làng Mui, còn gọi là sở Mui, nay là thôn Yên Duyên, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội. Tên làng bắt nguồn từ câu chuyện vua Lý Nhân Tông trong một chuyến đi kinh lý đến đất này, thấy một cô gái xinh đẹp cứ ẩn hiện trên con thuyền giữa dòng sông Hồng. Vua ở xa, cô gái cất tiếng hát, giọng ấm mà vang truyền; vua đến gần, lại không thấy cô gái đâu. Cho rằng đó là công chúa Thủy cung hiện lên, có nhân duyên với mình mà không gặp, vua bèn sức cho dân làng lập nghè thờ, gọi là Nghè Bà Chúa và ban mỹ tự cho bà là “Thần tiên mỹ nữ tự đại vương,” nhân đó đổi tên làng là An Duyên (mối tình duyên yên bình).
 
- 
    - Kẻ Giả
- Tên gọi chung của các làng Giả Chọ, Giả Cầu, Giả Viềng, Giả Vĩnh, nay là các thôn Lạc Thị (xã Ngọc Hồi), Quỳnh Đô, Ích Vịnh, Vĩnh Ninh (xã Vĩnh Quỳnh) đều thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội.
 
- 
    - Bùi nhùi
- Rơm hoặc giẻ bện chặt để đốt và giữ lửa.
 
- 
    - Làng Lê
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Làng Lê, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Kim Lũ
- Một làng cổ thuộc huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, bên bờ sông Tô Lịch. Ngoài tên Hán Việt Kim Lũ nghĩa là sợ tơ vàng, làng còn có tên Nôm là làng Lủ hay kẻ Lủ. Làng Lủ ngày xưa gồm ba xóm là Lủ Cầu, Lủ Trung và Lủ Văn, sau đó phát triển thành ba làng: Kim Giang, Kim Lũ và Kim Văn. Làng có truyền thống khoa bảng, là quê hương của các danh nhân Nguyễn Công Thái, Nguyễn Văn Siêu, Tản Đà...
 
- 
    - Hàng Đậu
- Một phố cổ của Hà Nội. Đầu phía đông phố là cửa ô Phúc Lâm, còn gọi là ô Hàng Đậu, đây là nơi ngày xưa mỗi phiên chợ người ngoại thành tập trung bán các loại đậu: đậu đen, đậu xanh, đậu trắng, đậu nành. Đầu phía tây phố là tháp nước Hàng Đậu, xây từ thời Pháp thuộc.
 
- 
    - Làng Ngâu
- Tên nôm của làng Yên Ngưu, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Làng Ngâu nổi tiếng trồng lúa. Rượu làng Ngâu cũng là một đặc sản nổi tiếng từ xưa.
 
- 
    - Tựu Liệt
- Một làng cổ nay thuộc xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
 
- 
    - Dao phay
- Dao có lưỡi mỏng, bằng và to bản, dùng để băm, thái.
 
- 
    - Rinh
- Bê (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Vò
- Hũ lớn làm bằng sành sứ, thường để đựng nước uống, rượu.
 
- 
    - Nghĩa nhân
- Cũng viết nhân nghĩa, nghĩa là "lòng yêu thương người (nhân) và biết làm điều phải (nghĩa)." Hiểu rộng là đạo nghĩa sống ở đời.
 
- 
    - Nhợ
- Cũng gọi là rợ, dây thừng nhỏ làm bằng gai hoặc xơ dừa, dùng để trói, buộc hoặc làm dây câu.
 
- 
    - Cá cựu
- Cá sống lâu năm trong vùng đất ngập nước hoặc ở lâu trong đìa liên tiếp mấy năm không tát.
 
- 
    - Vô song
- Không bì kịp (từ Hán Việt).
 
- 
    - Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Vừa ưa
- Đúng lúc (phương ngữ Bình Định - Phú Yên).
 
- 
    - Khoai mì
- Miền Trung và Nam gọi là sắn, một loại cây lương thực cho củ. Củ sắn dùng để ăn tươi, làm thức ăn gia súc, chế biến sắn lát khô, bột sắn nghiền, tinh bột sắn... Sắn cũng thường được ăn độn với cơm, nhất là trong thời kì khó khăn (như thời bao cấp).
 
- 
    - Bánh bò
- Một loại bánh làm bằng bột gạo, nước, đường và men, một số nơi còn cho thêm dừa nạo. Có một số loại bánh bò khác nhau tùy vùng miền, ví dụ Sóc Trăng có bánh bò bông, Châu Đốc có bánh bò thốt nốt...
 
- 
    - Bánh tráng
- Miền Trung và miền Nam gọi là bánh tráng, miền Bắc gọi là bánh đa. Đây một dạng loại bánh làm từ bột gạo, tráng mỏng, phơi khô, khi ăn có thể nướng giòn hoặc ngâm sơ với nước cho mềm để cuốn các thức ăn khác. Ngoài ra, bánh tráng còn có thể được làm với các thành phần khác để tạo thành bánh tráng mè, bánh tráng đường, bánh tráng dừa... mỗi loại có hương vị khác nhau.
 
- 
    - Ba chỉ
- Cũng gọi là ba rọi, phần thịt bụng của lợn.
 
- 
    - Bánh đúc
- Bánh nấu bằng bột gạo tẻ hoặc bột ngô quấy với nước vôi trong, khi chín đổ ra cho đông thành tảng, thường được ăn kèm với mắm tôm. Bánh đúc là món quà quen thuộc của làng quê.
 
- 
    - Bánh xèo
- Một loại bánh làm bằng bột, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá, đúc hình tròn. Tùy theo mỗi vùng mà cách chế biến và thưởng thức bánh xèo có khác nhau. Ở Huế, món ăn này thường được gọi là bánh khoái và thường kèm với thịt nướng, nước chấm là nước lèo gồm tương, gan, đậu phộng. Ở miền Nam, bánh có cho thêm trứng, chấm nước mắm chua ngọt. Ở miền Bắc, nhân bánh xèo còn có thêm củ đậu thái mỏng hoặc khoai môn thái sợi. Các loại rau ăn kèm với bánh xèo rất đa dạng gồm rau diếp, cải xanh, diếp cá, tía tô, rau húng, lá quế, lá cơm nguội non...
 
- 
    - Con bóng
- Một cách gọi dân gian của mặt trời và thời khắc trong ngày.
 





























