Ngọn lang trắng, ngọn vắn ngọn dài,
Rau tần ô, lá dọc lá ngang.
Trái dưa gang, sọc đen sọc trắng.
Ngọn rau đắng trong trắng ngoài xanh.
Chim quyên uốn lưỡi trên cành,
Bớ em ở bạc ông trời nào đành để em
Tìm kiếm "đưa về dinh"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Ngó lên trên trời, sao băng tứ diện
- 
        
        
        
    
    Chim xa bầy thương cây nhớ cộiChim xa bầy thương cây nhớ cội 
 Người xa người, tội lắm người ơi!
 Thà rằng chẳng biết thì thôi,
 Biết ra mỗi đứa một nơi sao đành?Dị bản- Chim lạc bầy còn thương cây nhớ cội 
 Người xa người, tội lắm người ơi
 Chẳng thà không biết thì thôi
 Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi thêm buồn
 
- 
        
        
        
    
    Chợ Sài Gòn đèn xanh, đèn đỏ,Chợ Sài Gòn đèn xanh, đèn đỏ 
 Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu
 Lấy anh, em đâu kể sang giàu
 Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn emDị bản- Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ 
 Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu
 Lấy em anh đâu kể sang giàu
 Rau dưa mắm muối chẳng nơi nào hơn em
 
- 
        
        
        
    
    Ai đi đợi với tôi cùng
- 
        
        
        
    
    Thằng Tây nó ở bên TâyThằng Tây nó ở bên Tây 
 Bởi vua chúa Nguyễn rước thầy đem sang
 Cho nhà, cho cửa tan hoang
 Cho thiếp ngậm đắng, cho chàng nuốt cay
 Cha đời mấy đứa theo Tây
 Mồ ông mả bố, voi giày biết chưa?
- 
        
        
        
    
    Hỡi anh mà đi ô thâm
- 
        
        
        
    
    Khi mô thề thốt cùng anh
- 
        
        
        
    
    Cây da mô cao bằng cây da Bàn Lãnh
- 
        
        
        
    
    Rạng ngày vác cuốc ra đồng
- 
        
        
        
    
    Tay cầm khẩu mía tiện tư
- 
        
        
        
    
    Một ngày cũng nghĩa bướm hoa
- 
        
        
        
    
    Cô là cô gái bên sông
- 
        
        
        
    
    Đêm khuya anh thức dậy xem trời
- 
        
        
        
    
    Hồi nhỏ tôi ở với cậu mợHồi nhỏ tôi ở với cậu mợ 
 Mợ cho ăn cơm nguội
 Uống nước lạnh, ngủ nhà ngoài
 Đêm khuya đau bụmg tôi lần tôi vô
 Mợ nghe sục sạc, mợ hỏi: đứa mô
 Thưa rằng đau bụng con vô kiếm gừng
 Tay dang mợ rút múi dây lưng
 Độc thì ta giải độc chớ kiếm gừng làm chiDị bản
- 
        
        
        
    
    Khăn anh nàng lấy vá vaiKhăn anh nàng lấy vá vai 
 Bây giờ nàng đã nghe ai dỗ dành?
 Chẳng nên, tháo chỉ lấy mụn trả anh
 Để anh đem bán lấy hai trăm vàng
 Một trăm anh đưa cho nàng
 Còn một trăm nữa để quàng cây đa
 Chứ em không nhớ lời thề nguyện với ta
 Sông có Nhị Hà, núi có Tản Viên
 Bây giờ nàng ở thế sao nên?
 Tôi khấn Nam Tào, Bắc Đẩu biên tên rành rành
 Đã yêu anh, thời quyết với anh
 Nhà tre, rui nứa , lợp tranh vững vàng
 Chớ tham nhà gỗ bức bàn
 Gỗ lim chẳng có, làm xoàng gỗ vông
 Chỉ nhọc mình thôi lại luống công
 Ðến khi gỗ mục, lại nằm nhà tre
 Còn duyên anh bảo chẳng nghe!
- 
        
        
        
    
    Anh thương em thì thưong cho chắc, thương cho chặt, thương cho bềnAnh thương em thì thưong cho chắc, thương cho chặt, thương cho bền 
 Đừng thương lỡ dở bắt đền uổng công
 Dốc lòng trồng lúa bẻ bông
 Ngó ra ngoài biển thấy ông đưa đò
- 
        
        
        
    
    Xa chi xa oan, xa ức, xa tức, xa tốiXa chi xa oan, xa ức, xa tức, xa tối 
 Xa không sợ tội với ông trời
 Chẳng thà không biết thì thôi
 Biết ra mỗi đứa một nơi thêm buồn
- 
        
        
        
    
    Đi xa anh nhớ quê nhàĐi xa anh nhớ quê nhà 
 Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
 Nhớ tình bố mẹ yêu thương
 Nhớ mảnh vườn, nhớ con đường quen thân
 Nhớ nhà em cách khoảng sân
 Hoa cau thơm ngát mỗi lần gió đưa
 Nhớ nhiều những sớm những trưa
 Đổi công em cấy, cày bừa anh lo
 Nhớ đồng xanh mỏi cánh cò
 Con đê bến cũ con đò ngày xưa.
- 
        
        
        
    
    Thân em như tấm lụa đào
Chú thích
- 
    - Cải cúc
- Còn gọi là rau tần ô, một loại rau có vị ngọt nhạt, hơi đắng, the, mùi thơm, có thể dùng ăn sống như xà lách, hoặc chế dầu giấm, ăn với lẩu, nấu canh... Cải cúc còn dùng làm thuốc chữa ho lâu ngày và chữa đau mắt.
 
- 
    - Rau đắng
- Cũng gọi là cây càng tôm, cây biển súc, một loại rau hình mũi mác, có vị đắng, thường được dùng làm rau sống hay chế biến nhiều món khác nhau, hoặc làm thuốc. 
Nghe bài hát Còn thương rau đắng mọc sau hè. 
 
- 
    - Đỗ quyên
- Có giả thuyết cho là chim cuốc. Theo hai học giả Đào Duy Anh và An Chi thì chim quyên là chim tu hú. Hình ảnh chim quyên trong ca dao dân ca thường tượng trưng cho những điều tốt đẹp.
 
- 
    - Miếu
- Trung và Nam Bộ cũng gọi là miễu, một dạng công trình có ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng trong văn hóa nước ta. Nhà nghiên cứu Toan Ánh trong Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, cho rằng: Miếu cũng như đền, là nơi quỷ thần an ngự. Miếu nhỏ hơn đền, thường xây theo kiểu hình chữ nhật với hai phần cách nhau bởi một bức rèm, nội điện bên trong và nhà tiền tế bên ngoài… Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng làm nhộn. Trong miếu cũng có tượng thần hoặc bài vị thần linh, đặt trên ngai, ngai đặt trên bệ với thần sắc hoặc bản sao…
 
- 
    - Cội
- Gốc cây.
 
- 
    - Chợ Bến Thành
- Còn gọi là chợ Sài Gòn, ban đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, nằm bên cạnh sông Bến Nghé, gần thành Gia Định (nên được gọi là Bến Thành). Sau một thời gian, chợ cũ xuống cấp, người Pháp cho xây mới lại chợ tại địa điểm ngày nay. Chợ mới được xây trong khoảng hai năm (1912-1914), cho đến nay vẫn là khu chợ sầm uất bậc nhất của Sài Gòn, đồng thời là biểu tượng của thành phố.
 
- 
    - Cồng
- Nhạc cụ dân tộc thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có hoặc không có núm. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để đánh cồng, chiêng. Cồng, chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao. Nhân dân ta thường đánh cồng chiêng trong các dịp lễ hội, hoặc khi ra trận để cổ vũ tinh thần quân sĩ.
 
- 
    - Nhiễu
- Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát.
 
- 
    - Vóc
- Một loại vải tơ tằm, bóng mịn, có hoa, dệt bằng sợi đồng màu, dùng làm tán thờ thần hay may y phục cho vua chúa, quan lại.
 
- 
    - Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Nỏ
- Không, chẳng (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
 
- 
    - Bàn Lãnh
- Tên một làng nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nằm bên bờ sông Thu Bồn.
 
- 
    - Thanh cảnh
- Yên bình, thanh nhàn (từ Hán Việt).
 
- 
    - Bảo An
- Tên một làng nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Bảo An là một làng có nghề nấu đường truyền thống từ thế kỉ 17, nhưng hiện nay đã mai một.    
Xem phóng sự Nghề xưa còn một chút này về nghề nấu đường ở Bảo An. 
 
- 
    - Hội An
- Một địa danh thuộc tỉnh Quảng Nam, nay là thành phố trực thuộc tỉnh này. Trong lịch sử, nhất là giai đoạn từ thế kỉ 15 đến thế kỉ 19, Hội An từng là một hải cảng rất phồn thỉnh. Hiện nay địa danh này nổi tiếng về du lịch với phố cổ cùng các ngành truyền thống: mộc, gốm, trồng rau, đúc đồng... Hội An còn được gọi là phố Hội hoặc Hoài Phố, hay chỉ ngắn gọi là Phố theo cách gọi của người địa phương.
 
- 
    - Đà Nẵng
- Tên thành phố thuộc Nam Trung Bộ, trước đây thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Nguồn gốc từ "Đà Nẵng" là biến dạng của từ Chăm cổ Daknan, nghĩa là "vùng nước rộng lớn" hay "sông lớn", "cửa sông cái" vì thành phố nằm bên bờ sông Hàn. Dưới thời nhà Nguyễn, Đà Nẵng có tên là Cửa Hàn, là thương cảng lớn nhất miền Trung. Cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu chính tại thành phố này.
Hiện nay Đà Nẵng là một thành phố hiện đại, trong lành, có tiềm năng du lịch rất lớn, và được xem là thành phố đáng sống nhất Việt Nam. 
 
- 
    - Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Dòng
- Kéo, dắt một vật gì bằng sợi dây dài.
 
- 
    - Cả
- Lớn, nhiều (từ cổ).
 
- 
    - Mấy nao
- Bao nhiêu.
 
- 
    - Tiện
- Gọt vòng quanh cho đứt hoặc tạo thành khía.
 
- 
    - Trai (gái) tơ
- Trai gái mới lớn, chưa có vợ có chồng.
 
- 
    - Độc bình
- Đọc trại là lục bình hoặc lộc bình, một vật dụng bằng gỗ, sứ hoặc đồng, dạnh thuôn, cổ cao, dùng để cắm hoa trên bàn thờ hoặc để trang trí.
 
- 
    - Nẫu
- Người ta, họ (phương ngữ Bình Định-Phú Yên).
 
- 
    - Lái
- Người chuyên nghề buôn chuyến một loại hàng hóa nhất định (lái gỗ, lái trâu...)
 
- 
    - Sao Nguyệt Bạch
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Sao Nguyệt Bạch, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Rạch
- Sông nhỏ chảy ra sông lớn.
 
- 
    - Cá chạch
- Miền Nam gọi là cá nhét, một loại cá nước ngọt trông giống như lươn, nhưng cỡ nhỏ, thân ngắn và có râu, thường rúc trong bùn, da có nhớt rất trơn. Vào mùa mưa cá chạch xuất hiện nhiều ở các ao hồ, kênh rạch; nhân dân ta thường đánh bắt về nấu thành nhiều món ngon như canh nấu gừng, canh chua, chiên giòn, kho tộ...
 
- 
    - Cá buôi
- Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của giảng: Cá buôi là "thứ cá sông tròn mình, nhỏ con mà có nhiều mỡ." Đó là một loại cá có tập tính sống thành bầy đàn. Khi đàn cá trưởng thành, chúng tách ra sống thành từng cặp. Và người đi bắt cá buôi thường bắt một lần được cả cặp, do con cá đi cùng cứ lẩn quẩn bên người bạn tình vừa bị bắt. Cá buôi có đặc điểm là chỉ ăn bọt nước và phiêu sinh vật nhỏ trong nước phù sa nên ruột rất sạch. Người ta chỉ có thể đánh bắt, chứ không câu được.
 
- 
    - Cá nược
- Một tên gọi dân gian ở miền Nam của cá heo.
 
- 
    - Địch Nghi
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Địch Nghi, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Thái thể
- Như thể.
 
- 
    - Mụn
- Mảnh vụn nhỏ (mụn vải).
 
- 
    - Nhị Hà
- Tên gọi trước đây của đoạn sông Hồng chảy qua địa phận Hà Nội, tính từ đoạn sông huyện Từ Liêm (hữu ngạn) và Đông Anh (tả ngạn) chảy qua phía Nam huyện Thanh Trì. Có thuyết nói rằng, đoạn sông này chảy uốn khúc như cái vòng đeo tai, nên có tên gọi là Nhị Hà (chữ Hán nhị 珥 là vòng đeo tai). Sông còn có tên khác là Phù Luông vì nước sông chảy cuốn theo phù sa sắc đỏ như son, đến mùa thu nước mới trong trở lại.
 
- 
    - Tản Viên
- Tên một ngọn núi nổi tiếng thuộc dãy núi Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội. Tản Viên còn có tên gọi khác là Ngọc Tản, Tản Sơn hoặc Phượng Hoàng Sơn.
 Tản Viên cao 1281m, gần đỉnh thắt lại, đến đỉnh lại xòe ra như chiếc ô nên gọi là Tản (傘). Chân núi này có đền Hạ, lưng chừng núi có đền Trung, đỉnh núi có đền Thượng là nơi thờ Sơn Tinh (Đức Thánh Tản). Núi Tản Viên là nơi gắn với huyền thoại về Sơn Tinh, một trong bốn vị thánh bất tử (tứ bất tử) của người Việt.
 
- 
    - Nam Tào
- Vị tiên trông coi bộ sổ sinh của con người ở trần gian, tức sổ những người được sinh ra đời, gọi là sổ Nam Tào (theo điển tích xưa và theo một số tín ngưỡng dân gian).
 
- 
    - Bắc Đẩu
- Vị tiên trông coi bộ sổ tử của con người ở trần gian, tức sổ người chết, còn gọi là sổ Bắc Đẩu (theo điển tích xưa và theo một tín ngưỡng dân gian).
 
- 
    - Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
 
- 
    - Nứa
- Loài cây cùng họ với tre, mình mỏng, gióng dài, mọc từng bụi ở rừng, thường dùng để đan phên và làm các đồ thủ công mĩ nghệ. Ống nứa ngày xưa cũng thường được dùng làm vật đựng (cơm, gạo, muối...).
 
- 
    - Cỏ tranh
- Loại cỏ thân cao, sống lâu năm, có thân rễ lan dài, ăn sâu dưới đất. Lá mọc đứng, cứng, gân nổi, dáng lá hẹp dài, mép lá rất sắc, có thể cứa đứt tay. Ở nhiều vùng quê, nhân dân ta thường đánh (bện) cỏ tranh thành tấm lợp nhà. Tro của cỏ tranh có vị mặn, vì vậy thú rừng thường liếm tro cỏ tranh thay cho muối.
 
- 
    - Bức bàn
- Kiểu cửa gỗ rộng suốt cả gian, gồm nhiều cánh rời dễ tháo lắp, thường có trong các kiểu nhà cũ.
 
- 
    - Vông đồng
- Loài cây tỏa cành rộng, tạo nhiều bóng mát, thân có nhiều gai, cành xốp dễ gãy đổ khi gặp gió lớn. Hoa màu đỏ, hoa đực mọc thành chùm dài, hoa cái mọc đơn độc tại các nách lá. Quả vông đồng thuộc dạng quả nang, khi khô sẽ nứt ra thành nhiều mảnh, tạo ra tiếng nổ lách tách.
 
- 
    - Cau
- Loại cây nhiều đốt, thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu.
 
- 
    - Vuông
- Đơn vị dân gian dùng để đo vải, bằng bề ngang (hoặc khổ) của tấm vải (vuông vải, vuông nhiễu).
 
- 
    - Trúc
- Một loại cây giống tre, mọc thành bụi, lá nhỏ và thưa hơn lá tre. Do trúc có dáng đẹp nên được trồng làm cây cảnh. Trong văn chương ngày xưa, trúc thường được dùng tượng trưng cho hình ảnh người quân tử, hoặc người con gái.
 
- 
    - Mai
- Còn gọi là mơ, một loại cây thân nhỏ, nhiều cành, rất phổ biến các nước Đông Á, nhất là Trung Quốc và Nhật Bản. Cây ra hoa vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Hoa mai nhỏ, mỗi hoa có năm cánh, thường hoa có màu trắng, mặc dù một số giống mai có thể cho hoa màu hồng hay đỏ sẫm. Trong văn học cổ, mai thường được dùng như một hình ảnh ước lệ, đại diện cho người phụ nữ. Lưu ý, cây mai này không phải là loại mai vàng của miền Nam nước ta.
 
- 
    - Đào
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, cũng được trồng để lấy quả hay hoa. Hoa đào nở vào mùa xuân, là biểu tượng của mùa xuân và ngày Tết ở miền Bắc. Quả đào vị ngọt hoặc chua, mùi thơm, vỏ quả phủ một lớp lông mịn. Đào xuất hiện rất nhiều trong văn học cổ Trung Quốc và các nước đồng văn. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
 
- 
    - Liễu
- Một loại cây thân nhỏ, lá rủ. Liễu xuất hiện rất nhiều trong thơ ca Á Đông, và thường tượng trưng cho người con gái chân yếu tay mềm.
 


























