Nhác trông thấy núi bên kia
Có hòn đá tảng có bia lưu truyền
Nhác trông anh khóa có duyên
Má lúm đồng tiền, da trắng phau phau
Nhác trông anh khóa có màu
Răng đen nhưng nhức như màu hạt dưa
Hỏi rằng anh vợ con chưa?
Thấy anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
Thấy anh cầm gióng mía con dao
Mía ngon, dao bén, tiện nào tiện hơn
Chuồn chuồn mắc búi tơ vương
Đã trót dan díu thì thương nhau cùng
Tìm kiếm "đưa về dinh"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Tay em cầm nắm nhang, cây tắt, cây đỏ
- 
        
        
        
    
    Chị kia bới tóc đuôi gàChị kia bới tóc đuôi gà, 
 Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu?
 – Nhà tôi ở dưới đám dâu
 Ở trên đám đậu đầu cầu ngó qua
 Ngó qua đám bắp trổ cờ
 Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông
 Ngó qua nhà trống bên sông
 Có con bìm bịp ăn trầu đỏ môi
- 
        
        
        
    
    Áo ngắn cũng như áo dài
- 
        
        
        
    
    Một đàn cò trắng bay quaMột đàn cò trắng bay qua 
 Biết mặt mà chẳng biết nhà làm quen
 Nhà chàng được mấy anh em
 Cho tôi biết tuổi biết tên tôi chào
 Mẹ thầy là người làm sao
 Tôi trông thấy mặt tôi chào cho mau
 Miệng thời chào mẹ đi đâu
 Tay thời mở túi đưa trầu mẹ ăn
 Tôi ra Tấn mới gặp Tần
 Đôi ta hồ dễ mấy lần gặp nhau
 Đâu người đón trước ngăn sau
 Thì ta cũng nói với nhau một lời
- 
            Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. 
 Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Má ơi, con không muốn lấy anh thổi kènMá ơi, con không muốn lấy anh thợ kèn 
 Phùng mang trợn mắt chảy ghèn hai bên
 Má ơi, con không muốn lấy anh thợ cưa
 Trên tàn dưới mạt, dái đưa lòng thòng
 Má ơi, con muốn lấy anh thợ bào
 Trườn lên tuột xuống nhát nào cũng êm
- 
        
        
        
    
    Hoài mồm ăn quả quýt khôHoài mồm ăn quả quýt khô 
 Hoài thân mà lấy nhà nho lúc tàn
 Nhà nho chữ nghĩa dở dang
 Xui nguyên giục bị, làm đơn kiếm tiền
 Nhà nho cái chữ đã hèn
 Cái sức lại yếu, đua chen bằng gì?
 Nhà nho tính khí kiêu kì
 Phân tranh miếng thịt, suy bì miếng xôi
 Chồng nho khổ lắm ai ơi
 Biết không ra biết, ngu thời chẳng ngu!
- 
        
        
        
    
    Cưới em ba họ nhà Trời
- 
            Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. 
 Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Cái gì chỉ có một đầu
- 
        
        
        
    
    Mực văng vô khó chùiMực văng vô giấy khó chùi 
 Vô vòng chồng vợ sụt sùi sao nên
 Hồi nào nhắn xuống nhắn lên
 Bây giờ thì đứng một bên không nhìn
 Bông xứng bông, bình lại xứng bình
 Mực Tàu xứng giấy, hai đứa mình sao chẳng xứng đôi?Dị bản
- 
        
        
        
    
    Bây giờ xâu nặng thuế cao
- 
        
        
        
    
    Sáng nay đi chợ tất niên– Sáng nay đi chợ tất niên 
 Em đây cầm một quan tiền trong tay
 Sắm mua cũng khá đủ đầy
 Nào cau, nào thuốc, trái cây, thịt thà
 Độc bình mua để cắm hoa
 Hột dưa, bánh mứt, rượu trà, giấy bông
 Tính hoài mà cũng chẳng thông
 Còn ba trăm sáu chục đồng tiền dư– Vội chi, em cứ thư thư 
 Anh đây sẽ tính chừ chừ cho em
 Sáu mươi đồng tính một tiền
 Mà ba trăm sáu chục đồng nguyên vẫn còn
 Vị chi em mới tiêu xong
 Cho hột dưa, bánh mứt, giấy bông, rượu, trà
 Trái cây, cau, thuốc, thịt thà
 Độc bình cùng với hương hoa là bốn tiền
 Ba trăm sáu chục đồng nguyên
 Tính ra chính thị sáu tiền còn dư
- 
        
        
        
    
    Cô kia cột tóc đuôi gà
- 
        
        
        
    
    Gặp anh Ba đây khiến hỏi anh Ba
- 
        
        
        
    
    Ăn cơm cũng thấy nghẹnĂn cơm cũng thấy nghẹn 
 Uống nước cũng thấy nghẹn
 Nghe lời em hẹn ra bãi đứng trông
 Biển xanh bát ngát nhìn không thấy người
 Mênh mông sông nước xa vời
 Biết rằng còn nhớ những lời thề xưa
 Trông ai như cá trông mưa
 Ngày đêm tưởng nhớ, như đò đưa trông nồm
 Bậu ơi! bậu có nhớ không?
 Anh trông ngóng bậu, như rồng ngóng mưaDị bản- Ăn cơm cũng nghẹn 
 Uống nước cũng nghẹn
 Nghe lời bạn hẹn
 Ra bãi đứng trông
 Bãi không thấy bãi mà người không thấy người.
 
- 
        
        
        
    
    Ai bảo thương mà anh không nói
- 
        
        
        
    
    Cha mẹ nàng đòi ba ngàn anh đi đủ chín ngànCha mẹ nàng đòi ba ngàn anh đi đủ chín ngàn 
 Anh mua gấm lát đàng, mua vàng lát ngõ
 Chiếu bông, chiếu hoa trải ra sáng rõ
 Mâm sơn, bát sứ, đũa ngự, chén ngà
 Nhà ngói chín tòa phần anh liệu trăm cái
 Trai như chàng trai đà xứng rể
 Gái như nàng xứng điệu xuân nương
 Voi bốn ngà anh chầu chực bốn phương
 Họ anh đi bảy vạn, tiền anh tương chín ngàn
 Cha mẹ em thách của em đừng khoe khoang
- 
        
        
        
    
    Vác cày ra ruộng hừng đông
- 
        
        
        
    
    Chàng đi để nhện buông mùngChàng đi để nhện buông mùng 
 Đêm năm canh thiếp chịu lạnh lùng cả năm
 Đêm nay bỏ thoải tay ra
 Giường không chiếu vắng xót xa trong lòng
 Nửa đêm súc miệng ấm đồng
 Lạnh lùng đã thấu đến lòng chàng chưa?
 Đêm qua tắt gió liền mưa
 Chàng cầm cành bạc thiếp đưa lá vàng
 Một ngày năm bảy tin sang
 Thiếp những mong chàng chàng những mong ai
 Má hồng còn có khi phai
 Răng đen khi nhạt tóc dài khi thưa
 Trông ra phố trách ông trời
 Chỗ ăn thì có chỗ ngồi thì không
 Chém cha cái số long đong
 Càng vương với chữ tình chung càng rầy
- 
        
        
        
    
    Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời
Chú thích
- 
    - Khóa sinh
- Học trò đã đỗ khảo khóa (kỳ thi sát hạch ở địa phương) thời phong kiến.
 
- 
    - Răng đen
- Người xưa có phong tục nhuộm răng đen. Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2002, trang 511, nói về nhuộm răng như sau:
"Phong tục người Việt cổ coi răng càng đen càng đẹp. Trước khi nhuộm đen phải nhuộm đỏ. Thuốc nhuộm răng đỏ là cánh kiến đỏ trộn với rượu rồi đun quánh như bột nếp. Quét bột này lên mảnh lá chuối hột ấp vào răng trước khi đi ngủ. Làm nhiều lần cho đến khi hàm răng bóng ánh nổi màu cánh gián. Thuốc nhuộm đen: phèn đen, vỏ lựu khô, quế chi, hoa hồi, đinh hương nghiền nhỏ, hòa giấm hoặc rượu, đun cho quánh như hồ dán. Quét lên lá chuối đắp lên răng như nhuộm đỏ. Từ 5 đến 7 ngày thuốc mới bám vào răng, nổi màu đen thẫm rồi đen bóng. Súc miệng bằng nước cốt dừa. Kiêng ăn thịt mỡ, cua cá, vật cứng, nóng. Có khi chỉ nuốt cơm hoặc húp cháo. Kể cả nhuộm đỏ và đen, thời gian kéo dài đến nửa tháng." 
 
- 
    - Gióng
- Có nơi nói là lóng, là một khoảng giữa hai đốt của thân cây có đốt như tre hay mía.
 
- 
    - Chuồn chuồn
- Tên chung của một bộ côn trùng gồm hơn 4500 loài, chia thành hai nhóm lớn: chuồn chuồn ngô và chuồn chuồn kim, khác nhau chủ yếu ở tư thế của cánh khi đậu và hình dạng của ấu trùng. Chuồn chuồn có đầu tròn và khá lớn so với thân được bao phủ phần lớn bởi hai mắt kép lớn hai bên, hai bên có cánh mỏng, dài, mỏng và gần như trong suốt. Trẻ em ở thôn quê thường bắt chuồn chuồn chơi.
 
- 
    - Tơ vương
- Tơ bị dính vào nhau; thường được dùng trong văn chương để ví tình cảm yêu đương vương vấn, khó dứt bỏ.
 
- 
    - Dan díu
- Có quan hệ yêu đương với nhau.
Con dan díu nợ giang hồ 
 Một mai những tưởng cơ đồ làm nên.
 (Thư gửi thầy mẹ - Nguyễn Bính)
 
- 
    - Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Chộ
- Thấy (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - The
- Hàng dệt bằng tơ nhỏ sợi, mặt thưa, mỏng, không bóng, thời xưa thường dùng để may áo dài hoặc khăn, màn.
 
- 
    - Tri âm
- Bá Nha đời Xuân Thu chơi đàn rất giỏi, thường phàn nàn thiên hạ không ai thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một lần Bá Nha đem đàn ra khảy, nửa chừng đàn đứt dây. Đoán có người rình nghe trộm, Bá Nha sai lục soát, bắt được người đốn củi là Tử Kỳ. Tử Kỳ thanh minh rằng nghe tiếng đàn quá hay nên dừng chân thưởng thức. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, tâm trí nghĩ tới cảnh non cao, Tử Kỳ nói: Nga nga hồ, chí tại cao sơn (Tiếng đàn cao vút, ấy hồn người ở tại núi cao). Bá Nha chuyển ý, nghĩ đến cảnh nước chảy, Tử Kỳ lại nói: Dương dương hồ, chí tại lưu thủy (Tiếng đàn khoan nhặt, ấy hồn người tại nơi nước chảy). Bá Nha bèn kết bạn với Tử Kỳ. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn mà rằng "Trong thiên hạ không ai còn được nghe tiếng đàn của ta nữa." Do tích này, hai chữ tri âm (tri: biết, âm: tiếng) được dùng để nói về những người hiểu lòng nhau.
 
- 
    - Dao cau
- Thứ dao nhỏ và sắc, dùng để bổ cau.
 
- 
    - Thầy
- Cha, bố (phương ngữ một số địa phương Bắc và Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Tấn Tần
- Việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công. Tần Mục Công lại gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần.
Trộm toan kén lứa chọn đôi, 
 Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.
 (Truyện Hoa Tiên)
 
- 
    - Xui nguyên giục bị
- Xúi giục cả bên nguyên cáo và bên bị cáo trong một vụ kiện. Hiểu rộng ra là hành động xui cả bên này lẫn bên kia, làm cho hai bên mâu thuẫn, xung đột với nhau, gây thiệt hại lẫn nhau, còn mình thì đứng giữa hưởng lợi.
 
- 
    - Hạ giới
- Nhân gian, theo quan niệm dân gian Trung Hoa và các nước đồng văn, là nơi người bình thường sinh hoạt, trái với thượng giới là nơi thần tiên ở.
 
- 
    - Ngọc Hoàng Thượng Đế
- Thường được gọi tắt là Ngọc Hoàng, cũng gọi là Ngọc Đế hoặc Thiên Đế, vị vua tối cao của bầu trời, cai quản Thiên đình trong quan niệm của Trung Quốc và Việt Nam. Theo thần thoại, Ngọc Hoàng Thượng Đế là người trần, tu luyện một nghìn bảy trăm năm mươi kiếp, mỗi kiếp mười hai vạn chín nghìn sáu trăm năm. Ngọc Hoàng cai quản toàn bộ lục giới : Nhân, Thần, Ma, Yêu, Quỷ, Tiên.
 
- 
    - Thiên Lôi
- Vị thần có nhiệm vụ làm ra sấm sét theo tưởng tượng của người xưa. Thiên Lôi thường được khắc họa là một vị thần tính tình nóng nảy, mặt mũi đen đúa dữ tợn, tay cầm lưỡi búa (gọi là lưỡi tầm sét). Trong văn hóa Việt Nam, Thiên Lôi còn được gọi là ông Sấm, thần Sấm, hoặc thần Sét.
 
- 
    - Thủy Tế
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Thủy Tế, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Viền
- Về (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Bông
- Hoa (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Mực Tàu
- Mực đen đóng thành thỏi, dùng mài vào nước để viết thư pháp (chữ Hán và gần đây là chữ quốc ngữ) bằng bút lông, hoặc để vẽ.
 
- 
    - Phong
- Dân gian gọi là cùi, phung, đơn phong, một loại bệnh khiến cho da thịt người bệnh phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt, lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn. Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể. Sau đó, các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Trong xã hội Việt Nam, người bị nhiễm bệnh phong cùi trước đây thường chịu thành kiến sai lầm, bị hắt hủi, xa lánh, thậm chí ngược đãi (thả trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt).
 
- 
    - Xâu
- Cũng gọi là sưu, món tiền mà người đàn ông từ mười tám tuổi trở lên phải nộp (sưu thế), hoặc những công việc mà người dân phải làm cho nhà nước phong kiến hay thực dân (đi xâu).
 
- 
    - Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
 
- 
    - Trường thọ
- Sống lâu (từ Hán Việt).
 
- 
    - Tất niên
- Cuối năm (từ Hán Việt).
 
- 
    - Cau
- Loại cây nhiều đốt, thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu.
 
- 
    - Độc bình
- Đọc trại là lục bình hoặc lộc bình, một vật dụng bằng gỗ, sứ hoặc đồng, dạnh thuôn, cổ cao, dùng để cắm hoa trên bàn thờ hoặc để trang trí.
 
- 
    - Thư thư
- Thong thả, từ từ, không bức bách.
 
- 
    - Chừ
- Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Trổ cờ
- Ra hoa.
 
- 
    - Ni
- Này, nay (phương ngữ miền Trung).
 
- 
    - Gió nồm
- Loại gió mát và ẩm ướt thổi từ phía đông nam tới, thường vào mùa hạ.
 
- 
    - Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - An Vinh
- Một làng nay thuộc xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Làng từ xưa đã nổi tiếng là đất võ, đặc biệt có nhiều phụ nữ có tài võ nghệ.
 
- 
    
- 
    - Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Ngự
- Từ dùng để chỉ những vật hay việc thuộc về hoàng cung. Về sau hiểu rộng ra, những vật quý đôi khi cũng gọi là ngự.
 
- 
    - Xuân nương
- Người con gái trẻ trung, xinh đẹp (từ Hán Việt).
 
- 
    - Cày
- Nông cụ dùng sức kéo của trâu, bò hay của máy cày, để xúc và lật đất. Cày gồm hai bộ phận chính: Lưỡi cày (ban đầu làm bằng gỗ, sau bằng sắt hoặc thép) và bắp cày bằng gỗ. Nếu cày bằng trâu bò, lại có thêm gọng cày nối từ bắp cày chạy dài đến ách để gác lên vai trâu, bò.
 
- 
    - Nao
- Có cảm giác chao động nhẹ (về tình cảm).
 
- 
    - Tạo thiên lập địa
- Lập nên trời đất.
 













