Ngó lên trời mây bay vần vũ,
Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan,
Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước,
Nhìn sông Trước thấy sóng bủa lao xao,
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Tìm kiếm "vu khống"
-
-
Có bột mới gột nên hồ
Dị bản
Không bột sao gột nên hồ.
-
Khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời
Khôn chẳng qua lẽ,
Khỏe chẳng qua lờiDị bản
Khôn không qua lẽ,
Khỏe không qua phép
-
Sống thì cua nướng, ốc lùi
Sống thì cua nướng, ốc lùi,
Chết cũng nên đời, ăn những miếng ngon.Dị bản
Sống không ăn cua nướng, ốc lùi,
Đến khi gần chết ngậm ngùi tiếc chi
-
Con có khóc, mẹ mới cho bú
Con có khóc mẹ mới cho bú
Dị bản
Con không khóc, mẹ không cho bú
-
Con sao con hổng giống cha
Dị bản
- Con bướm không nghe lời chaNhư con chát là nửa trắng nửa đen
-
Hai đánh một chẳng chột thì què
Hai đánh một chẳng chột thì què
Dị bản
Hai đánh một không chột cũng què
-
Thật thà ma vật cũng qua
Thật thà ma vật cũng qua
Dị bản
Thật thà ma vật không chết
-
Thương nhau củ ấu cũng tròn
Dị bản
Thương thì củ ấu cũng tròn
Không thương thì quả bồ hòn cũng vuông
-
Nên ra tay kiếm tay cờ
Làm trai cố chí lập thân
Rồi ra gặp hội phong vân cũng vừa
Nên ra tay kiếm tay cờ
Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ tay aiDị bản
Khi nên tay kiếm tay cờ
Không nên thì cũng chẳng nhờ cậy ai
-
Dốc lòng chờ đợi bông sung
Dị bản
Dốc lòng đi bẻ cây sung
Bỗng sung không có tạm dùng bông sen
Tới đây lạ hết không quen
Trước chào công tử làm quen vui vầy
-
Lấy chồng từ thuở mười lăm
Lấy chồng từ thuở mười lăm
Chồng chê tôi bé chẳng nằm cùng tôi
Ðến năm mười tám, đôi mươi
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy một còn ba
Ai về nhắn mẹ cùng cha
Chồng tôi nay đã giao hoà với tôiDị bản
-
Vàng sa xuống giếng khó tìm
Dị bản
Vàng sa đáy nước vàng chìm
Anh sa lời nói kiếm tìm không ra
-
Ngồi buồn kể ruốc nhau ra
Dị bản
-
Phải gần, lóng trước đã gần
Dị bản
Phải gần năm ngoái đã gần
Năm nay có tưởng mười phần cũng không
-
Người bớt đen lắm ló
Dị bản
-
Tai nghe kiểng đổ nhà thờ
Dị bản
Mười hai giờ kiểng đổ nhà thờ,
Sao anh không học đặng nhờ tấm thân?
-
Mẹ cho bú mớm nâng niu
Dị bản
Mẹ cha bú mớm nâng niu
Tội Trời đành chịu, không yêu bằng chồng
-
Con cá trong lờ đỏ hoe con mắt
Dị bản
Cá trong lờ đỏ hoe con mắt
Cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô
Tung tăng như cá trong lờ
Trong ra không được, ngoài ngờ là vui
-
Ai đi lạc xạc ngoài rào
Ai đi lạc xạc ngoài rào
Phải ông thợ mộc quảy bào, quảy cưa?
Có ai đi sớm về trưa
Phải ông thợ mộc quảy cưa, quảy bào?Dị bản
Ai đi sục sịch ngoài hàng dưa
Phải chăng chú thợ mộc với cái cưa, cái bào?
Ai đi sục sịch ngoài hàng rào
Phải chăng chú thợ mộc với cái bào, cái cưa?Ai đi lẹt xẹt ngoài rào
Như hình thợ mộc mang bào mang cưa
Thợ mộc ăn chịu trái dưa
Tiền đâu không trả, xách cưa đi đền
Chú thích
-
- Âm phủ
- Cũng gọi là âm ty, âm cung, một khái niệm trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc. Theo đó, linh hồn của người chết sẽ được đưa đến âm phủ, được luận xét công tội khi còn là người trần, sau đó tuỳ mức độ công tội mà được đưa đi đầu thai (thành người hoặc vật) hoặc phải chịu các hình phạt khủng khiếp. Trong văn hoá Trung Hoa và Việt Nam, âm phủ cũng có hệ thống như trần gian: đứng đầu âm phủ là Diêm Vương (cũng gọi là Diêm La Vương, nên âm phủ còn có tên là Điện Diêm La), dưới là các phán quan, cuối cùng là các quỷ dạ xoa.
-
- Bá quan
- Từ chữ Hán Việt bá 百 (trăm), và quan 官 (quan lại), chỉ tất cả các quan lại trong triều đình. Cũng nói là bá quan văn võ.
-
- Nam Vang
- Tên tiếng Việt của thành phố Phnom Penh, thủ đô nước Campuchia. Vào thời Pháp thuộc, để khai thác triệt để tài nguyên thuộc địa, chính quyền thực dân cho thành lập công ty tàu thủy, mở nhiều tuyến đường sông từ Sài Gòn và các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, vận chuyển hành khách, thổ sản, hàng hoá các loại đến Nam Vang, và ngược lại. Do đời sống quá khổ cực, nhiều người Việt Nam đã đến lập nghiệp tại Nam Vang.
-
- Tiền Giang
- Tên một nhánh của sông Cửu Long, gồm có bốn nhánh nhỏ hơn đổ ra biển Đông qua sáu cửa là Tiểu, Đại, Ba La, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu. Trên lãnh thổ Việt Nam, Tiền Giang chảy qua các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre và Trà Vinh.
-
- Thơ
- Thư (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Gột
- Quấy cho đặc sánh lại.
-
- Hổng
- Không (khẩu ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Củ ấu
- Một loại củ có vỏ màu tím thẫm, có hai sừng hai bên, được dùng ăn độn hoặc ăn như quà vặt.
-
- Bồ hòn
- Cây to cùng họ với vải, nhãn, quả tròn, khi chín thì thịt quả mềm như mạch nha. Quả bồ hòn có vị rất đắng, có thể dùng để giặt thay xà phòng.
-
- Lập thân
- Tu dưỡng, học tập cho nên người có tài có đức.
-
- Phong vân
- Phong: gió, vân: mây. Gặp hội phong vân, tức Tế hội phong vân 際會風雲, chỉ sự kẻ hiền tài gặp thời được dùng, công danh hiển đạt. Kinh Dịch: "Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thuỷ lưu thấp, hoả tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ" (Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô, mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật trông vào).
-
- Tay kiếm tay cờ
- Một tay cầm kiếm, một tay cầm cờ. Chỉ việc bình định giang sơn, lập nên sự nghiệp lớn.
"Chúa của ta, tay kiếm, tay cờ mà làm nên sự nghiệp, trong khi nhà ngươi đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, lại bị chúa công ta đánh cho không còn mảnh giáp. Đem so với chúa của ta, nhà ngươi chẳng qua là nước vũng so với ao trời." (Lời Bùi Thị Xuân trả lời câu hỏi của Nguyễn Ánh "Ta so với chúa ngươi ai hơn ai?", trích từ sách Nhà Tây Sơn - Quách Tấn, Quách Giao).
-
- Sung
- Một loại cây gặp nhiều trên các vùng quê Việt Nam. Thân cây sần sùi, quả mọc thành chùm. Quả sung ăn được, có thể muối để ăn như muối dưa, cà, ngoài ra còn dùng trong một số bài thuốc dân gian.
-
- Sen
- Loài cây mọc dưới nước, thân hình trụ, lá tỏa tròn, cuống dài. Hoa to, màu trắng hay đỏ hồng, có nhị vàng.
-
- Nghĩa giao hòa
- Nghĩa vợ chồng (dùng trong ca dao dân ca).
-
- Hung
- Dữ, quá (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Rứa
- Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Tứ Cẳng.
-
- Sa
- Rơi xuống (từ Hán Việt).
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Ngũ Dụm.
-
- Lóng
- Dạo (lóng rày nghĩa là "dạo này").
-
- Ló
- Lúa (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Diên Sanh
- Tên Nôm là kẻ Diên, một làng xưa thuộc xã Diên Thọ, huyện Lợi Điều, châu Thuận Hóa, nay thuộc xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Tại đây có những địa danh như làng Diên Sanh, chợ Diên Sanh (chợ Kẻ Diên), chùa Diên Thọ, chùa Diên Bình, chùa Diên Phước, nhà thờ Diên Sanh...
-
- Kẻng
- Cũng gọi là kiểng, một dụng cụ bằng kim loại được treo để đánh báo hiệu.
-
- Công giáo
- Còn được gọi là Thiên Chúa giáo, Kitô giáo hoặc đạo Giatô, một tôn giáo có niềm tin và tôn thờ đức Chúa Trời, Giêsu, các thánh thần. Chữ công có nghĩa là chung, phổ quát, đón nhận mọi người chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào. Xuất hiện ở nước ta từ khoảng thế kỉ 16, Công giáo phát triển khá mạnh cho đến ngày nay.
-
- Lờ
- Dụng cụ đánh bắt cá đồng làm bằng nan tre. Hình dạng của lờ giống như một cái lồng, ở một đầu có chế tạo một miệng tròn gọi là miệng hom sao cho cá chỉ có thể từ ngoài chui vào lờ thông qua miệng hom mà không thể chui ra. Khi đặt lờ thường người đặt thả mồi vào trong để dụ cá bơi vào.
Lờ có nhiều loại: Loại đại dài từ 0,5 đến 1 m, gọi là “lờ bầu”, thả chỗ nước sâu như sông, hồ để bắt cá diếc, sảnh, dầy. Loại tiểu gọi là “lờ đồng”, thả nơi nước cạn như ao, đìa, ruộng bắt cá trê, rô, sặc, mương, nhét…
-
- Quẩy
- Hoặc quảy: động tác mang vật gì bằng cách dòng qua vai và áp sát lưng, thường thấy là cách dùng một đầu quang gánh.
-
- Bào
- Đồ dùng nghề mộc, gồm hai lưỡi thép đặt trong khối gỗ, hai bên có tay cầm, dùng để làm nhẵn mặt gỗ. Động tác sử dụng bào cũng gọi là bào. Những việc đau lòng cũng được ví von là xót như bào, ruột xót gan bào...