Nước chảy quyên quyên
Chiếc thuyền em bơi ngược
Gắng gượng mái chèo em cất bước theo anh
Nước chảy quyên quyên
Dị bản
Nước chảy quyên quyên
Chiếc thuyền em đi ngược
Gắng gượng mái chèo em lần lượt theo anh
Nước chảy quyên quyên
Chiếc thuyền em đi ngược
Gắng gượng mái chèo em lần lượt theo anh
Một năm chia mười hai kì
Em ngồi em tính khó gì chẳng ra
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
Tháng sáu em đi buôn bè
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
Chín, mười cắt rạ đồng mùa
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
Anh ăn rồi anh lại nằm
Làm cho em phải quanh năm lo phiền
Chẳng thà lấy chú lực điền
Gạo bồ thóc đống còn phiền nỗi chi?
Soi gương còn mặt mũi nào
Đã rỗ lại xấu soi vào sao đang
Em còn bánh đúc bẻ ba
Mắm tôm quệt ngược, cửa nhà anh tan
Lồng cồng như mẹ chồng xới xôi
Bát đầy thì ít, bát vơi thì nhiều
Học ăn, học nói, học gói, học mở
– Tiếng đồn rằng bậu hò hay
Ta xin đố bậu cối xay mấy niền?
– Cối xay mười sáu cái niền
Xin hỏi lại bậu thuyền quyên mấy chèo?
– Thuyền quyên mười tám cái chèo
Ta xin đố bậu con mèo mấy lông?
– Bậu đố chi đố ngặt đố nghèo
Đố chi không đố, lại đố con mèo mấy lông
Bậu về tát cạn biển Đông
Thì ta sẽ đếm hết lông con mèo
Xông xáo như cáo vào chuồng gà
Đời cha vo tròn
Đời con bóp méo
Bạn cười thì mặc bạn cười
Duyên ta không bén với người thì thôi
Yêu nhau cho mặn cho mà
Chồng thuận vợ hòa trong ấm ngoài êm
Phải là con mẹ, con cha
Thì sinh ở đất Duyên Hà, Thần Khê
Vừa khấn dứt lời thì bà sinh một hoàng tử “Tư trời rạng rỡ, thần sắc anh dị, tuấn tú, sáng suốt, thực là bậc anh minh” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư), đặt tên là Lê Tư Thành, chính là vua Lê Thánh Tông sau này.