Em thương anh công khai, không còn sợ lộ
Dầu cho dao phay kề cổ
Dầu cho cha mẹ đánh trăm roi
Chết thì chịu chết, lìa đôi không lìa!
Ngẫu nhiên
-
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Kim đâm vào thịt thì đau
Kim đâm vào thịt thì đau
Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời -
Anh thương em chỉ nói bên ngoài
-
Câm hay ngóng, ngọng hay nói
Câm hay ngóng, ngọng hay nói
-
Em đi đâu đó em ơi
-
Bệnh gấp lành mau, đau lâu chậm khỏi
Bệnh gấp lành mau, đau lâu chậm khỏi
-
Họ Trương bạo cãi
-
Nón mua đồng mốt, tốt tợ như rồng
-
Cá trê nhúc nhích trong hang
-
Chị kia bới tóc thả diều
-
À à chựng chựng
À à chựng chựng
Chựng chựng cho lâu
Cày sâu bừa kĩ
Con nghỉ con chơi
À chựng chựng ơiCon bơi cho khỏe
Con trẻ cho dai
Đẹp đài đẹp lộc
Đẹp vóc nhà trời
À chựng chựng ơi … -
Biết nhau làm chi cho thiếp thương chàng nhớ
Biết nhau làm chi cho thiếp thương chàng nhớ
Hay như hồi xưa kia, thiếp chớ chàng đừng
Đặt mình xuống chiếu, chiếu chẳng dính lưng
Bưng bát cơm để xuống, cứ tưởng trông chừng ai theoDị bản
Biết nhau chi cho thiếp thương chàng nhớ
Hay chi hồi xưa thiếp nhớ, chàng đừng
Điệu chung tình thảm lắm chàng ôi,
Về nhà cơm dọn, còn ngồi khoanh tay
Không ăn thì cha đánh mẹ rầy
Ăn thì nước mắt nhỏ đầy bát cơm.
-
Được mùa lúa, úa mùa cau
-
Chừng nào cầu sắt gãy hai
-
Ở nhà đã định không đi
-
Mẹ em tham gạo tham gà
-
Sông Hương lắm chuyến đò ngang
-
Ba chân bốn cẳng
Ba chân bốn cẳng
-
Anh về rẫy vợ anh ra
Anh về rẫy vợ anh ra
Con anh thơ dại thì đà có tôi
Anh đà rẫy vợ anh rồi
Con anh thơ dại mặc trời với anhDị bản
Anh về rẫy vợ anh ra
Công nợ em trả, mẹ già em nuôi
Bây giờ anh rẫy vợ rồi
Công nợ anh trả, anh nuôi mẹ giàAnh về rẫy vợ anh ra
Con anh thơ dại thì đà có tôi
Anh đà rẫy vợ anh rồi
Con anh thơ dại mặc đời nhà anh
Vợ anh như thể cột nhà
Anh còn tình phụ nữa là thân tôi
-
Bướm ngộ bông như Quan Công ngộ cùng đạo tặc
Dị bản
Chú thích
-
- Dao phay
- Dao có lưỡi mỏng, bằng và to bản, dùng để băm, thái.
-
- Thầy mẹ
- Cha mẹ (phương ngữ miền Bắc).
Con đi mười mấy năm trời,
Một thân, một bóng, nửa đời gió sương.
Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương,
Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
Thầy mẹ ơi, thầy mẹ ơi,
Tiếc công thầy mẹ đẻ người con hư!
(Thư gửi thầy mẹ - Nguyễn Bính)
-
- Rương
- Hòm để đựng đồ (sách vở, quần áo...) hoặc tiền vàng, thường làm bằng gỗ, có móc khóa.
-
- Ngài
- Người (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Đặc điểm của ba tộc họ lớn ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.
-
- Tợ
- Tựa như, giống như (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Cá trê
- Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi.
-
- Cá ngát
- Một loại cá sống ở biển và những vùng nước lợ, có da trơn, thân hình giống như con cá trê, đầu to có râu và hai chiếc ngạnh sắc nhọn hai bên, thân dài đuôi dẹt. Cá ngát khi đã trưởng thành thường to bằng cán dao đến cổ tay người lớn. Ngư dân đánh bắt cá ngát bằng cách giăng lưới hoặc câu nhưng hiệu quả nhất là giăng lưới ở những luồng nước đục, chảy nhẹ vì chỗ này thường có nhiều cá. Cá ngát có thể chế biến thành nhiều loại thức ăn, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ vẫn là món canh chua cá ngát.
-
- Tóc thả diều
- Tóc chải buông thòng, rẽ tóc xuống hai phía gần ót rồi cuốn vòng lên.
-
- Được mùa lúa úa mùa cau
- Những năm khô hạn cau thường sai quả (cau là loại cây chịu hạn), nhưng lại không phù hợp với sự sinh trưởng và phát dục của cây lúa nước. Vì vậy những năm được mùa lúa thì thường mất mùa cau, và ngược lại.
-
- Sông Sài Gòn
- Tên cũ là Bình Giang, một con sông chảy qua địa phận tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh, rồi đổ vào sông Đồng Nai ở mũi Đèn Đỏ thuộc huyện Nhà Bè.
-
- Bói Kiều
- Một phong tục cũ, thường chơi vào dịp Tết. Theo Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục: "Bói Kiều là mình có việc gì muốn được biết hay dở đường nào thì khấn với Thúy Kiều, Kim Trọng xin cho mấy câu dòng nào, gặp chỗ nào thì lấy mấy câu thứ mấy ở trang ấy mà đoán. Cách này là một cách bói chơi, nhưng cũng nhiều khi nhiều người cho là nghiệm."
Lật đầu giường lấy cuốn Truyện Kiều, cô hé mở ra để xem đằng nào là đầu, đằng nào là cuối. Rồi hai bàn tay chắp lại một cách cung kính, cô đưa cuốn sách lên tận ngang mặt, đặt nghiêng ‘’bụng sách’’ vào thẳng sống mũi và khấn lầm rầm:
"Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, tên tôi là Hoàng Thị Ngọc, ở làng Vân Trình, thành tâm xin cô một quẻ..."
Vừa dứt tiếng quẻ, cô liền ngừng lại và chỉ mấp máy hai môi, không biết là nói những gì. Dứt hồi thì thầm, cô bấm một ngón tay cái vào giữa cuốn sách rồi giở ra xem. Ngón tay cái của cô trúng vào chỗ này:
Bó thân về với Triều Đình,
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu ?
Áo xiêm đùm bọc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi.Đọc đi đọc lại mấy lần, cô vẫn không hiểu nàng Kiều bảo mình cái gì!
(Lều chõng - Ngô Tất Tố)
-
- Bỗng nhi
- Bỗng nhiên (từ cũ).
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Sông Hương
- Tên con sông rất đẹp chảy ngang thành phố Huế và một số huyện của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tùy theo giai đoạn lịch sử, sông còn có các tên là Linh Giang, Kim Trà, Hương Trà... Ngoài ra, người xưa còn có những tên địa phương như sông Dinh, sông Yên Lục, sông Lô Dung... Sông Hương đã được đưa vào rất nhiều bài thơ, bài hát về Huế, đồng thời cùng với núi Ngự là hình ảnh tượng trưng cho vùng đất này.
-
- Rẫy
- Ruồng bỏ, xem như không còn tình cảm, trách nhiệm gì với nhau.
-
- Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
-
- Quan Công ngộ Tào tặc
- Quan Công gặp giặc Tào (tức Tào Tháo). Xem thêm chú thích Tào Tháo bại trận Xích Bích.
-
- Ngộ
- Gặp gỡ (từ Hán Việt).
-
- Quan Công
- Tên thật là Quan Vũ, tự là Vân Trường, Trường Sinh, một danh tướng của nhà Thục Hán thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Quan Công là một trong những nhân vật lịch sử được biết đến nhiều nhất ở Đông Á, hình ảnh của ông được đưa vào nhiều loại hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v. Ông được biểu tượng hóa thành hình mẫu con người trung nghĩa, chính trực, được thờ phụng ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Hồng Kông.