Hạ lợi bước qua
Chánh ngày hăm ba
Lễ đưa ông Táo
Hai là lễ đáo
Tảo mộ ông bà
Cổ tích bày ra
Truyền cho con cháu
Từ ngày hăm sáu
Dĩ chí ba mươi
Cá thịt tốt tươi
Ông bà tiếp rước
Phải dùng cây trước
Lấy nó làm nêu
Thiên hạ cũng đều
Lo chưng đồ đạc …
Tìm kiếm "tiền đàng"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Vè con daoNhà anh bất phú bất bần 
 Có con dao đoản hộ thân tháng ngày
 Con dao anh rày
 Dài vừa năm tấc
 Khi mài đã sắc
 Phá lở rú rừng hoang
 Cũng biện đủ cỗ cho làng
 Cũng no ngày đủ tháng.
 Đèn có khêu mới rạng
 Ngọc bất trác bất thành
 Ngẫm như con dao anh
 Nội trần gian không ai có
 Nội dưới trời không ai có …
- 
        
        
        
    
    Chỉ vì một chữ ănĂn lông ở lỗ, từ thuở tạo thiên 
 Hôm sớm cửa thiền, ăn chay niệm Phật
 Cả đời chật vật, làm không đủ ăn
 Tánh hay hiểu lầm, làm sao ăn ở
 Biết ăn theo thuở, biết ở theo thời
 Tài sức thua người, thì bị ăn hiếp
 Đờn ca ăn nhịp, mới thật tài năng
 Người không chịu làm, hay đi ăn ké
 Cần phải tránh né, cái bọn ăn dơ
 Vừa vét vừa quơ, muốn ăn trọn gói
 Hễ ăn một đọi, thì nói một lời
 Ăn phải coi nồi, ngồi thời coi hướng …
- 
        
        
        
    
    Ngó lên ngọn tháp Cánh TiênDị bản- Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên 
 Hỏi thăm ông Hậu thủ thiềng vì ai?
- Trung trinh thật đáng tướng hiền 
 Cảm thương ông Hậu thủ thiềng ba năm.
 
 
- 
        
        
        
    
    Ba đồng một khứa cá buôiDị bản
- 
        
        
        
    
    Yêu em không phải dáng hìnhYêu em không phải dáng hình 
 Không vì sắc đẹp, chỉ tình nghĩa thôi
 Nếu như cái đó mất rồi
 Thì anh đòi lại tiền hồi cưới em
- 
        
        
        
    
    Hoài mồm ăn quả quýt khôHoài mồm ăn quả quýt khô 
 Hoài thân mà lấy nhà nho lúc tàn
 Nhà nho chữ nghĩa dở dang
 Xui nguyên giục bị, làm đơn kiếm tiền
 Nhà nho cái chữ đã hèn
 Cái sức lại yếu, đua chen bằng gì?
 Nhà nho tính khí kiêu kì
 Phân tranh miếng thịt, suy bì miếng xôi
 Chồng nho khổ lắm ai ơi
 Biết không ra biết, ngu thời chẳng ngu!
- 
        
        
        
    
    Một thương tóc bỏ đuôi gàMột thương tóc bỏ đuôi gà 
 Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
 Ba thương má lúm đồng tiền
 Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
 Năm thương cổ yếm đeo bùa
 Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
 Bảy thương nết ở khôn ngoan
 Tám thương ăn nói dịu dàng thêm xinh
 Chín thương em ở một mình
 Mười thương con mắt có tình với ai.
- 
        
        
        
    
    Đời có sinh có tửĐời có sinh có tử 
 Có người dữ người hiền
 Đố anh trong truyện Vân Tiên
 Có ai thọ bịnh theo tiên chầu trời?
 Ai bị một gậy bỏ đời?
 Ai mà thổ huyết chết nơi gia đàng?
 Ai mà vừa tới lâm san
 Bị cọp ăn thịt chẳng oan ức gì?
 Ai mà ăn ở bất nghì
 Giữa đường bị cá nuốt đi?
 Ai mà hùng hổ một khi
 Kéo quân chật đất, ngựa phi dậy trời
 Xưng tài giỏi nhất trần đời
 Bị Tiên một nhát đứt lìa đầu đi?
 Anh mà phân rõ thị phi
 Em đây thí phát vô chùa đi tu …
- 
        
        
        
    
    Nhớ xưa đương thuở triều Hùng
- 
        
        
        
    
    Đêm qua trời sáng trăng rằmĐêm qua trời sáng trăng rằm 
 Anh đi qua cửa, em nằm không yên
 Mê anh chẳng phải mê tiền
 Thấy anh lịch sự, có duyên, dịu dàng
 Thấy anh em những mơ màng
 Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi
 Thấy anh chưa kịp ngỏ lời
 Ai ngờ anh đã vội dời gót loan
 Thiếp tôi mê mẩn canh tàn
 Chiêm bao như thấy anh chàng ngồi bên
 Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên
 Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày
 Nghĩ rằng duyên nợ từ đây
 Xin chàng hãy lại nơi đây chút nào
 Cho thiếp tỏ thiệt với nao!
- 
        
        
        
    
    Một thương hơ hớ tuổi xuânMột thương hơ hớ tuổi xuân 
 Hai thương yểu điệu tay chưn dịu dàng
 Ba thương đẹp đẽ dung nhan
 Bốn thương phong thái đoan trang khác vời
 Năm thương dáng đứng vẻ ngồi
 Sáu thương đôi mắt sáng ngời long lanh
 Bảy thương chiếc mũi thanh thanh
 Tám thương miệng nói hữu tình có duyên
 Chín thương má núng đồng tiền
 Mười thương tư cách dịu hiền nết na
- 
        
        
        
    
    Gẫm thân phận thiếp như thuyền kia không bánhGẫm thân phận thiếp như thuyền kia không bánh 
 Thân vì muốn lập thân mà ngại nặng gánh gia đình
 Chàng ơi! Tại cảnh gia đàng em có một ông cha già đành cỡi hạc chầu tiên
 Còn bà mẹ hiền như trái chín trên nhành chờ khi ướm rụng.
 Chàng ơi! Em ra đây, gặp chàng em hỏi thiệt
 Trai chàng tính cho em ở vậy hay là em cất bước thượng trình tòng phu
 Chàng ơi! Tại cảnh gia đàng của em, mấy ống tre ngã xiêu ngã tó.
 Mấy tấm vạt cau rớt lên rớt xuống, ai ngó vào cũng chặc lưỡi lắc đầu, hỡi ôi cho thân phận thiếp.
 Anh kết nghĩa lương duyên với em tình chồng nghĩa vợ. Anh em bạn của anh đứng ngoài xa, miệng kêu tay ngoắc.
 Bớ Tư ơi ! Người đâu sao không khác chi chị Thoại Khanh thuở trước khảy đàn tầm bạn mà kết nghĩa ái ân làm gì?
- 
        
        
        
    
    Mừng nay nho sĩ có tàiMừng nay nho sĩ có tài 
 Bút nghiên dóng dả, giữ mài nghiệp nho
 Rõ ràng nên đấng học trò
 Công danh hai chữ trời cho rõ ràng
 Một mai chiếm được bảng vàng
 Ấy là phú quý giàu sang quế hòe
 Bước đường tiến đến cống nghè
 Vinh quy bái tổ, ngựa xe tưng bừng
 Bốn phương nức tiếng vang lừng
 Ngao du bể thánh, vẫy vùng rừng nho
 Quyền cao chức trọng trời cho
 Bõ công học tập, bốn mùa chúc minh
- 
        
        
        
    
    Dám khuyên khách ở trên đờiDám khuyên khách ở trên đời 
 Ước cho no đủ mọi mùi ăn chơi
 Ước gì gặp tiên trên trời
 Như chàng Lưu Nguyễn lên chơi động đào
 Ước gì làm được quan cao
 Giã ghe ngựa cưỡi võng đào nghênh ngang
 Ước gì lắm bạc nhiều vàng
 Như chàng Vương Khải thế gian ai tài
 Ước gì gặp hội rồng mây
 Đăng khoa chiếm bảng ngày rày vinh hoa
 Ước gì trăm tám tuổi già
 Sống như Bành Tổ mới là sống lâu
 Ước gì lắm rể nhiều dâu
 Lắm con nhiều cháu bề sau thọ tràng
 Ước gì được cả trăm đàng
 Như lan như huệ cùng chung một đoàn
 Ước gì như quạt như gương
 Phan Trần sánh lại mà thương nhau cùng
 Ước cho có thủy có chung
 Ước cho no đủ chữ đồng mà thôi
 Thế là anh đã ước rồi
 Thì nàng ước lại cho tôi bằng lòng
- 
        
        
        
    
    Đêm nằm chép miệng thở thanĐêm nằm chép miệng thở than 
 Thiếp ơi có nhớ nghĩa chàng hay không?
 Dang tay rớt chén rượu nồng
 Vái cùng Nguyệt lão tơ hồng xe dây
 Xin cho đó hiệp cùng đây
 Đừng cho gió tạt mưa bay điều gì
 Mỗi ngày mỗi thảm sầu bi
 Lê mê thấy cảnh, li bì thấy duyên
 Ta đây vốn thật Vân Tiên
 Đó phải Nguyệt Nga cất tiếng, ta khuyên vài lời
 Xưa rày mỗi đứa mỗi nơi
 Đám đông như hội đến chơi cũng buồn
- 
        
        
        
    
    Chiều chiều ra đứng bờ sông
- 
        
        
        
    
    Chuồn chuồn đánh giặcChuồn chuồn đánh giặc 
 Voi đậu bờ rào
 Rộng nhất thì ao
 Hẹp hòi thì biển
 Đẹp nhất thì khỉ
 Xấu xa thì tiên
 Bong bóng thì chìm
 Gỗ lim thì nổi
 Đào ao bằng chổi
 Quét nhà bằng mai
 Tròn thì bồ đài
 Méo thì miệng thúng …
- 
        
        
        
    
    Răng to mắt xếch người lùnRăng to mắt xếch người lùn 
 Bay quen ác độc lại còn khoe hay
 Ngô tao đang tốt xanh cây
 Bay đem bắt nhổ cấy đay điền vào
 Lúa, bông, lạc của dân tao
 Bay cướp, bay giật, bay nào tha chi
 Đi bộ bay chẳng muốn đi
 Bay bắt phu kéo, bay thì quỵt công
 Vác gươm hống hách đi rong
 Buồn mồm chén phở, bay không trả tiền
 Nhà tao con nối cha truyền
 Bay vào bay ở, bay liền đuổi ra
 Bay vơ mâm, bắt lợn gà
 Bay hiếp con gái bà già xôn xao
 Bay thù gì tổ tiên tao
 Chết rồi bay vẫn còn đào mả lên
 Đình chùa, nghè miếu thiêng liêng
 Tiện đường bay đạp, chả kiêng chỗ nào
 Tội bay ác độc là bao
 Phải đâm, phải chém, phải cào mặt bay!
- 
            Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. 
 Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Gặp ba trò khiến hỏi ba trò– Gặp ba trò khiến hỏi ba trò 
 Đường đi trên bụng có đò hay không?
 – Cao sơn lưỡng nhũ ở trên
 Tiểu khê có nước, muốn lên có sào
 Dang tay mở khóa động đào
 Nhứt can, trực nhật đến ao phụng hoàng
 Đường lên trên bụng có sào sang
 Cần chi đò dọc, đò ngang cho tốn tiền
 Nói ra thậm chí vô duyên
 Nằm ngửa bậu hỏi: “Nằm nghiêng mấy đò?”
Chú thích
- 
    - Hạ lợi
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Hạ lợi, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Chánh
- Chính.
 
- 
    - Ông Táo
- Còn gọi là Táo quân hoặc vua bếp, tên vị thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà (táo 灶 có nghĩa là bếp). Theo tín ngưỡng Việt Nam, hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp, Táo quân cưỡi cá chép lên chầu Ngọc Hoàng, báo cáo những chuyện đã xảy ra trong năm cũ. Táo quân thực ra gồm hai ông và một bà, được gọi chung như vậy theo thuyết "Tam vị nhất thể."
 
- 
    - Lễ đáo
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Lễ đáo, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Tảo mộ
- Quét mồ. Theo tục cổ, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên. Ở Trung và Nam Bộ, lễ này được gọi là dẫy mả, và được tổ chức vào tháng chạp hằng năm.
Thanh minh trong tiết tháng ba 
 Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
 (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
 
- 
    - Dĩ chí
- Cho đến (từ Hán Việt).
 
- 
    - Nêu
- Cây tre cao đem trồng trước sân nhà mỗi dịp tết Nguyên Đán, trên ngọn có đeo một vòng tròn nhỏ và treo nhiều vật dụng có tính chất biểu tượng tùy theo địa phương, phong tục, dân tộc. Đọc thêm về sự tích cây nêu.
 
- 
    - Thiên hạ
- Toàn bộ mọi vật, mọi người. Đây là một khái niệm có gốc từ Trung Quốc (thiên 天 (trời) hạ 下 (ở dưới), nghĩa đen là "dưới gầm trời").
"Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ." (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân) 
 
- 
    - Bất phú bất bần
- Không giàu không nghèo.
 
- 
    - Đoản
- Ngắn
 
- 
    - Rú rừng
- Rừng núi (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Biện
- Lo liệu, chuẩn bị.
 
- 
    - Cỗ
- Những món ăn bày thành mâm để cúng lễ ăn uống theo phong tục cổ truyền (đám cưới, đám giỗ...) hoặc để thết khách sang trọng.
 
- 
    - Rạng
- Sáng tỏ.
 
- 
    - Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lí
- Ngọc không mài giũa thì không thành món đồ (trang sức), người không học thì không hiểu lí lẽ. Đây là một câu trong Lễ Ký, một trong Ngũ Kinh.
 
- 
    - Thuở tạo thiên
- Lúc mới lập ra trời đất.
 
- 
    - Đọi
- Cái chén, cái bát (phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
 
- 
    - Tháp Cánh Tiên
- Còn có tên gọi là tháp Đồng, một ngôi tháp nằm ở chính giữa thành Đồ Bàn, nay thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Tháp được xây dựng vào thế kỷ 12, thuộc phong cách Bình Định và có một phần ảnh hưởng từ kiến trúc Khmer do thời kì này có sự giao lưu thường xuyên giữa vương quốc Khmer và Chăm Pa.
 
- 
    - Võ Tánh
- Danh tướng triều Nguyễn dưới thời Nguyễn Ánh. Ông có công giúp Nguyễn Ánh chống nhà Tây Sơn và mất trước khi nhà Nguyễn chính thức thành lập. 
Năm 1800, ông và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng Châu trấn giữ thành Bình Định. Thành bị hai đại tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bao vây suốt 18 tháng liền. Đến ngày 7/7/1801, nhắm không cầm cự được nữa, ông cho người trao Trần Quang Diệu bức thư xin tha chết cho quân sĩ trong thành, rồi sai thuộc hạ lấy rơm củi chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào, châm ngòi tự vẫn. Đương thời, ông được xếp cùng với Đỗ Thành Nhơn và Châu Văn Tiếp là "Gia Định tam hùng" (ba người hùng đất Gia Định). Ông giữ chức Hậu quân nên nhân dân yêu mến gọi ông là quan Hậu, hoặc ông Hậu. 
 
- 
    - Thiềng
- Thành (cách phát âm của một số vùng Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Khứa
- Cứa (phương ngữ). Khi dùng như đại từ, "khứa" có nghĩa là một khúc được cứa (cắt) ra, thường dùng cho cá.
 
- 
    - Cá buôi
- Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của giảng: Cá buôi là "thứ cá sông tròn mình, nhỏ con mà có nhiều mỡ." Đó là một loại cá có tập tính sống thành bầy đàn. Khi đàn cá trưởng thành, chúng tách ra sống thành từng cặp. Và người đi bắt cá buôi thường bắt một lần được cả cặp, do con cá đi cùng cứ lẩn quẩn bên người bạn tình vừa bị bắt. Cá buôi có đặc điểm là chỉ ăn bọt nước và phiêu sinh vật nhỏ trong nước phù sa nên ruột rất sạch. Người ta chỉ có thể đánh bắt, chứ không câu được.
 
- 
    - Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
 
- 
    - Xui nguyên giục bị
- Xúi giục cả bên nguyên cáo và bên bị cáo trong một vụ kiện. Hiểu rộng ra là hành động xui cả bên này lẫn bên kia, làm cho hai bên mâu thuẫn, xung đột với nhau, gây thiệt hại lẫn nhau, còn mình thì đứng giữa hưởng lợi.
 
- 
    - Huyền
- Một loại đá màu đen nhánh, dùng làm đồ trang sức. Cũng chỉ màu đen nhánh như hạt huyền.
 
- 
    - Răng đen
- Người xưa có phong tục nhuộm răng đen. Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2002, trang 511, nói về nhuộm răng như sau:
"Phong tục người Việt cổ coi răng càng đen càng đẹp. Trước khi nhuộm đen phải nhuộm đỏ. Thuốc nhuộm răng đỏ là cánh kiến đỏ trộn với rượu rồi đun quánh như bột nếp. Quét bột này lên mảnh lá chuối hột ấp vào răng trước khi đi ngủ. Làm nhiều lần cho đến khi hàm răng bóng ánh nổi màu cánh gián. Thuốc nhuộm đen: phèn đen, vỏ lựu khô, quế chi, hoa hồi, đinh hương nghiền nhỏ, hòa giấm hoặc rượu, đun cho quánh như hồ dán. Quét lên lá chuối đắp lên răng như nhuộm đỏ. Từ 5 đến 7 ngày thuốc mới bám vào răng, nổi màu đen thẫm rồi đen bóng. Súc miệng bằng nước cốt dừa. Kiêng ăn thịt mỡ, cua cá, vật cứng, nóng. Có khi chỉ nuốt cơm hoặc húp cháo. Kể cả nhuộm đỏ và đen, thời gian kéo dài đến nửa tháng." 
 
- 
    - Áo yếm đeo bùa
- Một kiểu áo của phụ nữ ngày xưa. Người mặc yếm đeo thêm một cái bùa nhỏ, vừa để làm đẹp vừa có ý nghĩa tâm linh.
 
- 
    - Nón quai thao
- Còn gọi là nón ba tầm, nón thúng, một loại nón xưa của phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ. Nón làm bằng lá gồi hoặc lá cọ, mặt nón rộng 70 - 80 cm, hình bánh xe, đỉnh bằng, có vành cao độ 10 - 12 cm. Mặt dưới nón gắn một vành tròn vừa đầu người đội, gọi là khua. Quai nón dài, khi đội thì thả võng đến thắt lưng, người đội dùng tay giữ quai. Quai nón làm bằng từ một 1 tới 8 dây thao đen kết bằng tơ, chỉ, ngoài bọc tơ dệt liên tục. Đời nhà Trần, nón này được cải tiến cho cung nữ đội và gọi là nón thượng.
 
- 
    - Lục Vân Tiên
- Tên nhân vật chính, đồng thời là tên tác phẩm truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19, đề cao đạo lý làm người. Lục Vân Tiên là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ, cùng với Kiều Nguyệt Nga, một người con gái chung thủy, đức hạnh trải qua nhiều sóng gió nhưng cuối cùng cũng đạt được hạnh phúc.
Đối với người dân Nam Bộ, truyện Lục Vân Tiên có sức ảnh hưởng rất lớn, được xem là hơn cả Truyện Kiều của Nguyễn Du. 
 
- 
    - Thọ bịnh
- Thọ bệnh, bị bệnh (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Gia đường
- (Gia: nhà, đường: nhà lớn) nhà cửa ở có thờ phụng ông bà. Cũng dùng để chỉ cha (xuân đường) và mẹ (huyên đường). Người Nam Bộ phát âm thành gia đàng.
 
- 
    - Sơn lâm
- Núi rừng (từ Hán Việt). Cũng nói san lâm hoặc lâm san.
 
- 
    - Vô nghì
- Không có tình nghĩa (từ cũ). Cũng nói bất nghì.
 
- 
    - Thị phi
- Phải và không phải. Chỉ sự đồn đại, chê bai.
Kẻ yêu nên ít lời cao hạ, 
 Người ghét càng nhiều tiếng thị phi.
 (Than thân - Nguyễn Hữu Chỉnh)
 
- 
    - Thí phát
- Cắt tóc (phương ngữ).
 
- 
    - Vũ Ninh
- Tên một ngọn núi ở tỉnh Bắc Ninh, theo sự tích là quê của Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương). Thánh Gióng là một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (tứ bất tử), là người có công dẹp giặc Ân đem lại thái bình cho đất nước. Truyền thuyết kể rằng: Ông sinh ra thời vua Hùng thứ 6 tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, do mẹ ông ướm chân vào một vết chân lớn trên đất về mang thai. Tuy lên ba nhưng Gióng không biết nói cười, đi đứng. Đến khi giặc Ân kéo đến bờ cõi, Gióng bỗng dưng cất tiếng gọi mẹ nhờ mời sứ giả của vua vào, đưa yêu sách đòi áo giáp, roi và ngựa sắt để đánh giặc. Chỉ trong mấy hôm, Gióng vươn vai thành một tráng sĩ cao lớn, cưỡi ngựa sắt vua ban đánh giặc Ân tan tác. Đuổi đám tàn quân đến chân núi Sóc (Sóc Sơn), Gióng cởi áo giáp, thả dao, cùng ngựa bay về trời.
 
- 
    - Bách Việt
- Từ chỉ các bộ tộc Việt cổ không bị Hán hóa hoặc chỉ bị Hán hóa một phần từng sống ở vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam trong khoảng thời gian giữa thiên niên kỉ 1 TCN và thiên niên kỉ 1 sau CN (theo công trình nghiên cứu Định nghĩa Bách Việt của học giả William Meacham, xuất bản năm 1996, và các nguồn khác). Đây cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các dân tộc này đã sinh sống.
 
- 
    - Sơn hà
- Núi sông (từ Hán Việt). Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước.
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư 
 Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
 Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
 Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
 (Lý Thường Kiệt)Dịch thơ: Sông núi nước Nam vua Nam ở 
 Rành rành định phận tại sách trời
 Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
 Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
 
- 
    - Thảo mãng
- Cỏ hoang (từ Hán Việt).
 
- 
    - Anh hài
- Trẻ con rất nhỏ (từ Hán Việt).
 
- 
    - Sóc Sơn
- Tên một huyện và cũng là tên một ngọn núi (còn gọi là núi Sóc, núi Mã, núi Dền hay núi Vệ Linh) ở phía Bắc thành phố Hà Nội. Theo truyền thuyết, đây là nơi sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng cởi áo giáp, bỏ lại roi và cùng ngựa sắt bay về trời. Núi Sóc trước kia thuộc địa phận Vĩnh Phúc, từ 1976 thuộc Hà Nội.
 
- 
    - Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
 
- 
    - Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
 
- 
    - Chiêm bao
- Nằm mơ.
 
- 
    - Tương tư
- Nhớ nhau (từ Hán Việt). Trong văn thơ, tương tư thường được dùng để chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương trong tình yêu trai gái.
Gió mưa là bệnh của Trời 
 Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
 (Tương tư - Nguyễn Bính)
 
- 
    - Chưn
- Chân (cách phát âm của Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Núng
- Lúm (phương ngữ).
 
- 
    - Thoại Khanh - Châu Tuấn
- Một truyện thơ Nôm khuyết danh rất nổi tiếng ở Nam Bộ ngày trước, đã được chuyển thể thành cải lương và phim. Thoại Khanh là một phụ nữ xinh đẹp, người vợ hiền, dâu thảo. Châu Tuấn - chồng nàng, bị đày đi sứ 17 năm. Thoại Khanh lưu lạc, đói rách, nhưng vẫn nhường cơm sẻ áo với mẹ chồng, thậm chí cắt thịt ở cánh tay để nuôi mẹ, khoét mắt mình để cứu mẹ. Châu Tuấn thi đỗ Trạng nguyên, hai lần được hai vua Tống vương và Tề vương gả con gái, nhưng chàng đều khước từ, không phụ người vợ thuở hàn vi. Mối tình chung thủy của Thoại Khanh, Châu Tuấn đã cảm hoá cả hai vị vua và hai nàng công chúa, làm thần Phật xúc động. Sau cùng Châu Tuấn được lên ngôi vua, sống sung sướng cùng Thoại Khanh và hai người vợ thứ con Tề vương và Tống vương.
 
- 
    
- Bài ca dao này rút từ truyện Ngày xưa tháng chạp trong tập Biển cỏ miền Tây của nhà văn Sơn Nam. Theo nhà văn Sơn Nam, đây là một bài hát huê tình, lớp hò nghèo (than nghèo). Hát huê tình là một thể loại ca dao đặc biệt của người miền Tây: "Hát đưa em với hát huê tình không khác nhau. Đưa em ở trong nhà. Hò hát ở ngoài ruộng."
 
- 
    - Nghiên
- Đồ dùng để mài mực hoặc son khi viết chữ Hán hoặc gần đây là thư pháp.
 
- 
    - Bảng vàng
- Từ chữ kim bảng 金榜, chỉ tấm biển đề tên những thí sinh thi đỗ dưới thời phong kiến. "Chiếm bảng vàng" hay "giật bảng vàng" vì thế nghĩa là thi cử đỗ đạt.
 
- 
    - Quế hòe
- Đời Ngũ đại (Trung Quốc) ở hạt Yên Sơn có người tên là Đậu Vũ Quân sinh được năm người con đều đỗ đạt, người đời gọi là Yên Sơn ngũ quế (năm cây quế ở Yên Sơn). Đến đời Tống lại có Vương Hựu trồng trước sân ba cây hòe, nguyện rằng "Con ta sau sẽ làm quan tam công," về sau quả nhiên con là Vương Đán làm đến tể tướng. "Quế hòe" (hoặc sân quế sân hòe) vì thế chỉ việc con cái phát đạt.
 
- 
    - Vinh quy
- Trở về một cách vẻ vang (thường nói về người thi đỗ các khoa thi xưa kia). Từ này thường được dùng trong cụm "vinh quy bái tổ" (trở về bái lạy tổ tiên).
Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy 
 Hai bên có lính hầu đi dẹp đường.
 Tôi ra đón tận gốc bàng
 Chồng tôi xuống ngựa, cả làng ra xem.
 (Thời trước - Nguyễn Bính)
 
- 
    - Rừng Nho biển Thánh
- Sách vở Nho giáo nói chung.
 
- 
    - Chúc minh
- Sáng rỡ (chúc 燭 là ngọn đuốc).
 
- 
    - Lưu Nguyễn
- Tên của hai nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc là Lưu Thần và Nguyễn Triệu đời nhà Hán, nhân tiết Đoan Dương (5-5 âm lịch) vào núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc lối về. Hai người tao ngộ tiên nữ, kết làm vợ chồng. Sống hạnh phúc được nửa năm thì hai chàng nhớ quê muốn về thăm. Các tiên nữ cho biết đây là cõi tiên, đã về trần là không thể trở lại, song vẫn không giữ được hai chàng. Lưu, Nguyễn hồi hương thấy quang cảnh khác hẳn xưa, thì ra họ xa nhà đã bảy đời. Buồn bã, hai người trở lại Thiên Thai thì không thấy tiên đâu nữa.
 
- 
    - Vương Khải
- Quan Hậu tướng quân nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, em của Văn Minh hoàng hậu, nhà rất giàu có, ăn chơi xa xỉ. Ông và Thạch Sùng từng có cuộc thi xem nhà ai có nhiều của báu hơn. Ở Nam Bộ, tên ông này cũng được phát âm thành Dương Khởi.
 
- 
    - Rày
- Nay, bây giờ (phương ngữ).
 
- 
    - Bành Tổ
- Cũng có tên là Bành Khang, một nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc. Chuyện kể rằng một hôm Bành Khang nấu một nồi canh gà rừng dâng lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng ưng ý, liền bảo: "Nhà ngươi đếm trên mình gà có bao nhiều sợi lông màu sắc rực rỡ thì nhà ngươi sống được bấy nhiêu tuổi". Bành Khang tìm lại đống lông gà, đếm được 800 sợi, nhờ đó sống được 800 tuổi. 
Trong văn hóa Trung Quốc, ông Bành Tổ được xem là biểu tượng cho sự trường thọ. 
 
- 
    - Trường thọ
- Sống lâu (từ Hán Việt).
 
- 
    - Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Phan Trần
- Một truyện Nôm khuyết danh, chưa rõ sáng tác trong thời gian nào. Truyện gồm 954 câu lục bát, kể về tình yêu hai nhân vật Phan Sinh và Kiều Liên. Theo nhà phê bình Hoài Thanh: "Lời văn kể chuyện thỉnh thoảng có cái vị tươi mát và hồn nhiên của tiếng nói quần chúng, nhiều khi vui đùa dí dỏm và luôn luôn êm đẹp nhẹ nhàng, nói chung rất điêu luyện mà không bao giờ cứng nhắc, khô khan. Nhiều câu rất giống Truyện Kiều. Lời văn cũng góp nhiều vào cái vị ngọt ngào của câu chuyện."
 
- 
    - Thủy chung
- Trước và sau. Thường được dùng với nghĩa (tình cảm) trước sau như một, không thay đổi. Từ này trước đây cũng được viết là thỉ chung.
 
- 
    - Chữ đồng
- Từ cụm từ Hán Việt "đồng tâm đái," hoặc "dải đồng," chỉ sợi thắt lưng ngày xưa có hai dải lụa buộc lại với nhau. Văn chương cổ dùng từ "chữ đồng" hoặc "đạo đồng" để chỉ sự kết nguyền chung thủy của vợ chồng.
Đã nguyền hai chữ đồng tâm 
 Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Kết tóc xe tơ
- Kết tóc: Thuở xưa, con trai và con gái đều để tóc dài bới lên đầu. Trong đêm tân hôn, tóc của dâu rể được các nữ tì buộc vào nhau. Xe tơ: Xem chú thích Nguyệt Lão. 
Kết tóc xe tơ có nghĩa là cưới nhau, thành vợ thành chồng. 
 
- 
    - Hiệp
- Họp, hợp (sum họp, hòa hợp) (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Kiều Nguyệt Nga
- Tên nhât vật nữ chính trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Kiều Nguyệt Nga là một người con gái xinh đẹp, đức hạnh, được Vân Tiên cứu thoát khỏi tay bọn cướp Phong Lai. Nghe tin Vân Tiên chết, nàng đã ôm bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự vẫn, nhưng được Phật Bà đưa dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Kiệm ép nàng lấy hắn. Nàng trốn đi, nương tựa nhà một bà lão dệt vải. Sau này khi Vân Tiên dẹp giặc Ô Qua, đi lạc vào rừng đã gặp lại Nguyệt Nga, hai người sống sum vầy hạnh phúc.
Kiều Nguyệt Nga được người dân Nam Bộ xem là biểu tượng của lòng chung thủy. 
 
- 
    - Lái
- Người chuyên nghề buôn chuyến một loại hàng hóa nhất định (lái gỗ, lái trâu...)
 
- 
    - Khuê Cầu
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Khuê Cầu, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Đánh quay
- Một trò chơi dân gian rất phổ biến trước đây. Người chơi dùng một sợi dây quấn quanh con quay, sau đó bổ (lăng, giật) thật nhanh để con quay xoay càng nhiều vòng trước khi đổ càng tốt. Con quay có thể làm bằng gỗ, sừng, chũm cau, hạt nhãn, hạt vải, hạt mít, đất sét...
Ngày xưa vào những ngày lễ Tết thường tổ chức đánh quay, có thể có tranh đua ăn tiền. Tùy theo địa phương mà trò này có các tên khác là đánh vụ, đánh gụ hoặc đánh cù. Con quay cũng có các tên tương ứng là bông vụ, con gụ hoặc con cù. 
 
- 
    - Áo cổ kiềng
- Một loại áo ngắn tương tự như áo bà ba ở miền Nam, cổ áo ôm sát cổ và được may viềng nẹp như cái kiềng, nên có tên gọi như vậy.
 
- 
    - Cố
- Giao tài sản (đồ đạc, ruộng đất...) cho người khác để làm tin.
 
- 
    - Mai
- Còn gọi cái thêu, thuổng hay xuổng, một dụng cụ gồm một lưỡi sắt nặng, to và phẳng, tra vào cán dài, để đào, xắn đất.
 
- 
    - Bồ đài
- Đồ dùng để múc nước, làm bằng mo cau gập và nẹp lại.
 
- 
    - Thúng
- Dụng cụ để chứa, đựng, hay đong các loại nông, thủy, hải sản. Thúng thường được đan bằng tre, hình chén, miệng tròn hoặc hơi vuông, lòng sâu, có khi sâu tới nửa mét, đường kính khá lớn, khoảng từ 45 cm (thúng con) đến 55 cm (thúng cái). Vành miệng thúng có dây mây nức vành.
 
- 
    - Đay
- Một loại cây thuộc họ bông gòn, chiều cao từ 2 - 5 m, vỏ cây dùng để làm sợi. Trong Chiến tranh Đông Dương, Pháp và Nhật đã bắt dân ta "nhổ lúa trồng đay" nhằm phục vụ chiến tranh (sản xuất quân trang, quân phục), làm sản lượng lương thực bị giảm mạnh, góp phần gây nên nạn đói năm Ất Dậu ở miền Bắc.
 
- 
    - Bông vải
- Một loại cây thấp, được trồng từ rất sớm. Hoa bông mới trổ có màu trắng sữa, sau chuyển thành màu trắng phấn. Tiếp đó xuất hiện múi bông, sau 6 đến 9 tuần thì múi bông chín muồi chuyển sang màu nâu, khi nở lộ ra chất sợi mềm màu trắng. Sợi này là lông dài, mọc trên vỏ của hạt bông. Người ta thu hoạch bông để kéo sợi, dệt thành vải.
 
- 
    - Xe kéo
- Cũng gọi là xe tay, một loại xe hai bánh do một người kéo, thường dùng để chở khách. Xe kéo xuất hiện ở nước ta vào khoảng cuối thế kỉ 19, do người Pháp đem qua, và đã trở thành biểu tượng cho sự phân biệt giai cấp, người bóc lột người trong xã hội Pháp thuộc. Sau 1945, xe kéo bị cấm sử dụng ở Việt Nam.
Hàng xóm khóc bằng câu đối đỏ 
 Ông chồng thương đến cái xe tay
 (Mồng hai Tết viếng cô Ký - Tú Xương)
 
- 
    - Nghè
- Một hình thức của đền miếu. Nghè có thể là nơi thờ thành hoàng ở làng nhỏ được tách ra từ làng gốc, cũng có thể là một ngôi đền nhỏ ở một thôn nhằm thuận tiện cho dân sở tại trong sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính của làng xã khó đáp ứng nhu cầu thờ cúng thường nhật.
 
- 
    - Miếu
- Trung và Nam Bộ cũng gọi là miễu, một dạng công trình có ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng trong văn hóa nước ta. Nhà nghiên cứu Toan Ánh trong Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, cho rằng: Miếu cũng như đền, là nơi quỷ thần an ngự. Miếu nhỏ hơn đền, thường xây theo kiểu hình chữ nhật với hai phần cách nhau bởi một bức rèm, nội điện bên trong và nhà tiền tế bên ngoài… Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng làm nhộn. Trong miếu cũng có tượng thần hoặc bài vị thần linh, đặt trên ngai, ngai đặt trên bệ với thần sắc hoặc bản sao…
 
- 
    
- Trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, chính phủ Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc Xã, phải đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ bộ vào Đông Dương. Trong thời kì cai trị ở nước ta (1940 - 1945), các chính sách cai trị của quân đội Nhật đã khiến đời sống người dân thêm cơ cực, và đặc biệt góp phần gây nên nạn đói khủng khiếp từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 (nạn đói năm Ất Dậu), làm từ nửa triệu đến hai triệu người chết đói. Bài ca dao này có lẽ ra đời vào khoảng thời gian này.
 
- 
    - Cao sơn
- Hòn núi cao.
 
- 
    - Lưỡng nhũ
- Hai vú.
 
- 
    - Tiểu khê
- Khe nước nhỏ.
Tà tà bóng ngả về tây, 
 Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
 Bước dần theo ngọn tiểu khê,
 Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
 (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
 
- 
    - Đào nguyên
- Nguồn đào, chỉ cõi tiên trong tác phẩm Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm, nhà thơ lớn đời Đông Tấn, Trung Quốc. Tóm tắt tác phẩm như sau: Vào khoảng triều Thái Nguyên đời Tấn, có một người đánh cá ở Vũ Lăng một hôm bơi thuyền thấy một đóa hoa đào trôi từ khe núi. Ông bèn chèo thuyền dọc theo khe núi, đi mãi rồi đến một thôn xóm dân cư đông đúc, đời sống thanh bình. Người đánh cá hỏi chuyện mới biết tổ tiên của họ vốn người nước Tần, nhưng do không chịu được chế độ hà khắc của Tần Thủy Hoàng nên bỏ lên sống ở đó, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Ở lại mấy ngày, rồi người ngư phủ tạm biệt ra về. Sau một thời gian, ông quay lại tìm chốn đào nguyên nhưng không thấy nữa.
Đào nguyên cũng gọi là động đào. 
 
- 
    - Nhứt can
- Một cây gậy.
 
- 
    - Trực nhật
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Trực nhật, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 






















