Bây giờ gặp phải hội này
Khi trời hạn hán, khi hay mưa dầm
Khi trời gió bão ầm ầm,
Đồng tiền lúa thóc, mười phần được ba
Lấy gì đặng nộp cho chàng
Lấy gì công việc xóm làng cho an
Lấy gì sưu thuế cho làng
Lấy gì hỗ trợ trên đàng làm ăn
Trời làm chi cực hại dân
Trời làm mất mát thêm phần khó khăn!
Tìm kiếm "tiền đàng"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Anh đừng thấy đăng mà phụ đó
- 
        
        
        
    
    Cầu Trường Tiền bấy nhiêu niên qua lại
- 
        
        
        
    
    Con gái lấy thợ câu cuaMột thương em nhỏ móng tay 
 Hai thương em bậu khéo may yếm đào
 Ba thương cám cảnh cù lao
 Bốn thương em bậu miệng chào có duyên
 Năm thương má lúm đồng tiền
 Sáu thương em bậu như tiên chăng là
 Bảy thương em có nguyệt hoa
 Tám thương em bậu làm qua phải lòng
 Chín thương nước mắt ròng ròng
 Mười thương em bậu phải lòng qua chăng?
 Mười một em hãy còn son
 Mười hai vú dậy đã tròn như vung
 Mười ba em đã có chồng
 Bước qua mười bốn trong lòng thọ thai …
- 
        
        
        
    
    Vè chàng LíaLía ta nổi tiếng anh hào 
 Sơn hà một góc thiếu nào người hay
 Bạc tiền thừa đủ một hai
 Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
 Làm cho bốn biển anh hùng
 Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
 Kẻ nào tàn ác lâu nay
 Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
 Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
 Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
 Nhất nhì những bực nhà quan
 Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
 Nhà nào nhiều bạc dư tiền
 Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
 Tuy chàng ở chốn non đầu
 Nhưng mà lương thực vật nào lại không
 Lâu la ngày một tụ đông
 Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
 Mọi người trên dưới trong ngoài
 Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
 Tiếng tăm về đến trào đàng
 Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
 Nam triều chúa ngự ngai vàng
 Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
 Có quan ngự sử bày phô
 Tâu lên vua rõ lai do sự tình
 Đem việc chàng Lía chiêu binh
 Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
 Nào khi Lía phá xóm làng
 Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
 Kể tên những bậc phú hào
 Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
 Vua ngồi nghe rõ một hai,
 Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
 – Dè đâu có đứa gian tà
 Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
 Truyền cho mười vạn binh hùng
 Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
 Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
 Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
 Gập ghềnh bao quản núi non
 Dậy trời sát khí quân bon lên rừng. …
- 
        
        
        
    
    Một thương em nhỏ móng tayMột thương em nhỏ móng tay 
 Hai thương em bậu khéo may yếm đào
 Ba thương cám cảnh phù lao
 Bốn thương em bậu miệng chào có duyên
 Năm thương má lúm đồng tiền
 Sáu thương em bậu như tiên chăng là
 Bảy thương em có nguyệt hoa
 Tám thương em có bậu làm qua phải lòng
 Chín thương nước mắt ròng ròng
 Mười thương em bậu phải lòng qua chăng
 Mười một thương em hãy còn son
 Mười hai thương vú dậy đã tròn như vung
 Mười ba thương em đã có chồng
 Bước qua mười bốn trong lòng thọ trai
 Mười lăm sinh đặng con trai
 Sang năm mười sáu đặng hai đời chồng
 Mười bảy em còn ở không
 Đến năm mười tám lấy chồng căn duyên
 Mười chín lấy thợ đóng thuyền
 Hai mươi lấy lính quan quyền thờ vua
 Hai mốt lấy chàng câu cua
 Hăm hai lên chùa mê mệt thầy tu
 Hai ba lấy thợ đóng dù
 Bước qua hăm bốn lấy phu đi đàng
 Lỡ duyên em bậu ngỡ ngàng
 Trở về em lấy dân làng cho xong.
- 
        
        
        
    
    Mưa sa lác đác
- 
        
        
        
    
    Vào vườn trảy quả cau nonVào vườn trảy quả cau non 
 Anh thấy em giòn, muốn kết nhân duyên
 Hai má có hai đồng tiền
 Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa
 Anh đã có vợ con chưa?
 Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
 Mẹ già anh ở nơi nào?
 Để em tìm vào hầu hạ thay anh
 Chẳng tham nhà ngói rung rinh
 Tham về một nỗi anh xinh miệng cười
 Miệng cười anh đáng mấy mươi
 Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm
- 
        
        
        
    
    Nhất hào
- 
        
        
        
    
    Mình em nào nhẫn, nào hoa
- 
        
        
        
    
    Con chuột rúc rích ao cầnCon chuột rúc rích ao cần 
 Chồng thức vợ ngủ, chồng lần ra đi
 Chồng đánh bạc vợ khóc tỉ ti
 Năm xung tháng hạn, của đi thay người
 Nó đánh chuyến trước hết bảy quan hai
 Cửa nhà cơ nghiệp, quần dài áo bông
 Bán đi trả nợ cho chồng
 Còn ăn hết nhịn bằng lòng chồng con
 Đắng cay như ngậm bồ hòn
 Đắng thì phải chịu, thở than người cười
- 
        
        
        
    
    Em gặp anh đây, cho em hỏi thử đôi lời– Em gặp anh đây, cho em hỏi thử đôi lời 
 Chữ chi anh chôn xuống đất,
 Chữ chi anh cất lên trang,
 Chữ chi anh mang không nổi,
 Chữ chi gió thổi không bay,
 Trai nam nhi anh mà đối đặng,
 Em thưởng cái nón bài thơ đội liền.
 – Chữ Triệu anh chôn xuống đất,
 Chữ Tiên sư anh cất lên trang,
 Chữ Trung chữ Hiếu anh mang không nổi,
 Bia tạc đá vàng, gió thổi không bay,
 Trai nam nhi anh đà đối đặng, em thưởng cái nón bài thơ đâu rồi?
- 
        
        
        
    
    Cha mẹ nàng đòi ba ngàn anh đi đủ chín ngànCha mẹ nàng đòi ba ngàn anh đi đủ chín ngàn 
 Anh mua gấm lát đàng, mua vàng lát ngõ
 Chiếu bông, chiếu hoa trải ra sáng rõ
 Mâm sơn, bát sứ, đũa ngự, chén ngà
 Nhà ngói chín tòa phần anh liệu trăm cái
 Trai như chàng trai đà xứng rể
 Gái như nàng xứng điệu xuân nương
 Voi bốn ngà anh chầu chực bốn phương
 Họ anh đi bảy vạn, tiền anh tương chín ngàn
 Cha mẹ em thách của em đừng khoe khoang
- 
        
        
        
    
    Hai tay cầm nắm lạt bẻ còHai tay cầm nắm lạt bẻ cò 
 Lòng anh thương da diết, sao em giả đò làm lơ
 Thương em phát dại phát khờ
 Đang ăn đũa rớt bao giờ không hay
 Cầm kéo quên cắt quên may
 Cầm ve quên rượu, cầm khay quên trầu
 Cầm đèn quên bấc quên dầu
 Cầm trang sách đọc quên đầu quên đuôi
 Cầm cân quên giá quên lui
 Cầm tiền mà xỉa không biết mấy mươi một tiền
 Thương em nhất dại nhì điên
- 
        
        
        
    
    Thằng Tây nó có ống nhòmThằng Tây nó có ống nhòm 
 Nó nhìn nó đếm, nó nom từng người
 Sú ba dăng nó chạy đâu rồi
 Đến khi nó đến cho vài ba toong
 Thằng Tây lại chửi “cu-xoong”
 Cu li ức quá chửi không ra lời
 – Hỡi anh em những người làm mỏ
 Tay mi-nơ sẵn có nghề riêng
 Làm đâu cũng lấy bằng tiền
 Làm lò ông Thuận mất quyền lợi to
 Việc than gio trong lò chẳng khá
 Than khó làm mà giá chẳng cao
 Anh em ta đấm buồi vào!
- 
        
        
        
    
    Vè bần phúThảo một bài bần phú, 
 Luận đôi câu nhơn nghĩa tinh vi.
 Kẻ đắc thời đắc lễ đắc nghi
 Người thất thế, thất thi thất nghiệp.Cũng có kẻ cực già đời mãn kiếp, 
 Cũng có người phong lưu tự bé chí già.
 Việc ấy nghĩ không ra,
 Chẳng biết tại căn hay là tại số?Cũng có kẻ ở phường, ở phố, 
 Cũng có người sầu giả lâm bô.
 Đã khắp trong cửu quận mười đô,
 Vì hai chữ phú bần lợn lạo. …
- 
        
        
        
    
    Cô mơ cô mận cô đàoCô mơ cô mận cô đào 
 Trong ba cô ấy ai nào kém ai
 Cô mít thì chỉ nói dai
 Còn như cô dứa sởn gai cũng kì
 Bình boong lại giống hồng bì
 Trong lòng những hạt có gì nữa đâu
 Quý thay bậc nhất cô cau
 Cúng người cúng Phật khấn cầu bình yên
 Trước là hai chữ nhân duyên
 Nghinh hôn sính lễ được nên vợ chồng
 Trung thu mới thấy cô hồng
 Cô cam, cô quýt ra lòng đua chơi
 Lạ lùng anh mới tới nơi
 Hỏi thăm cô nhãn là người ở đâu
 Xuân xanh chừng mấy tuổi đầu
 Mà xem ăn vận ra mầu gái tơ
 Cô táo chính thực lẳng lơ
 Ở cao có ý đợi chờ tình nhân …
- 
        
        
        
    
    Vè nói láoTiếng đồn quả thiệt chẳng sai 
 Có người nói láo không ai dám bì
 Lội ngang qua biển một khi
 Thấy tàu đương chạy tôi ghì ngừng như không
 Lên rừng tôi vác đá hàn sông
 Gặp cọp tôi bồng về để nuôi chơi
 Nhà tôi có trồng một bụi cải trời
 Lá bằng cái sịa kinh thời tôi quá kinh
 Dưa gang của tôi cái hột bằng cái chình
 Sức tôi một mình ăn hết nồi ba
 Tôi trồng chơi có một dây khổ qua
 Nó ra một trái tôi xách mà năm ky …
- 
        
        
        
    
    Vè đánh TâyTượng nghe: 
 Nước có nguồn, cây có gốc
 Huống chi người có da, có tóc
 Mà sao không biết chúa, biết cha?
 Huống chi người có nóc có gia
 Mà sao không biết trung biết hiếu
 Hai vai nặng trĩu
 Gánh chi bằng gánh cang thường
 Một dạ trung lương
 Gồng chi bằng gồng xã tắc
 Bớ những người tai mắt
 Thử xem loại thú cầm:
 Trâu ngựa dòng điếc câm
 Còn biết đền ơn cho nhà chủ
 Muông gà loài gáy sủa
 Còn biết đáp nghĩa lại người nuôi …
- 
        
        
        
    
    Thư gửi chồngJê-cờ-ri một bức tình thư, 
 Ăng-voa, thăm hỏi me-xừ di-đăng
 Tú xon gạt nước mắt than rằng:
 Cô-song cái phận lăng nhăng nhỡ nhàng.
 Đờ-puy thiếp bén duyên chàng,
 Nô-xờ chưa được một bàn tiệc vui.
 Ê-loa-nhê ai khéo giục xui,
 Cu-tô ai nỡ cắt mùi nguyệt hoa
 La cua mút mọc, luyn tà,
 La săm biết lấy ai là a-mi
 Lạnh lùng mảnh áo sơ-mi
 Năm canh trằn trọc lơ li một mình.
 A-mi ai có thấu tình,
 Để cho đến nỗi thân mình biếng ba
 Pơ-răng qua để làm quà,
 Jê-cơ-ri uyn lét để mà ca-đô
 Tự ngày bước xuống ba-tô
 Lác-mơ nó chảy như hồ Trúc Yên
 Xi vu lét-xê moa tiền,
 Thì moa cũng chẳng được yên bông cờ
 Tiện lời thăm hỏi ta xơ,
 Cùng cả gia quyến ơ-rơ thanh nhàn.
 Lơ roa Thành Thái Annam
 23 tháng Tám bước sang tháng Mười
 Tên em là Nguyễn Thị Thời.
Chú thích
- 
    - Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
 
- 
    - Đăng
- Dụng cụ đánh bắt cá, bao gồm hệ thống cọc và lưới hoặc bện bằng dây bao quanh kín một vùng nước để chặn cá bơi theo dòng.
 
- 
    - Đó
- Dụng cụ đan bằng tre hoặc mây, dùng để bắt tôm cá.
 
- 
    - Nghĩa nhân
- Cũng viết nhân nghĩa, nghĩa là "lòng yêu thương người (nhân) và biết làm điều phải (nghĩa)." Hiểu rộng là đạo nghĩa sống ở đời.
 
- 
    - Bạn vàng
- Bạn thân, bạn quý. Thường dùng để chỉ người yêu.
 
- 
    - Thiên kim
- Ngàn vàng (từ Hán Việt).
 
- 
    - Cầu Tràng Tiền
- Còn có tên gọi là cầu Trường Tiền, một chiếc cầu gồm sáu nhịp dầm thép thiết kế theo phong cách kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương, ngay trung tâm thành phố Huế. Đây là một trong những chiếc cầu thép đầu tiên được xây tại Đông Dương. Tràng Tiền hay Trường Tiền đều có nghĩa là "công trường đúc tiền" vì chiếc cầu này được xây gần công trường đúc tiền của nhà Nguyễn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, tên gọi dân gian này trở thành tên chính thức. Trước đó, cầu còn có các tên gọi khác: cầu Đông Ba (do ở gần chợ Đông Ba), cầu Mây, cầu Mống, Thành Thái, Clémenceau, và Nguyễn Hoàng.
 
- 
    - Niên
- Năm (từ Hán Việt)
 
- 
    - Thành Thái
- (14/3/1879 – 24/3/1954) Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Lên ngôi khi mới mười tuổi, ông sớm bộc lộ tinh thần dân tộc và chủ trương đánh Pháp. Nǎm 1916 ông đày ra đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân, đến tháng 5 năm 1945 mới được cho về Việt Nam. Ông sống tại Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) đến năm 1954 thì mất.
 
- 
    - Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
 
- 
    - Chín chữ cù lao
- Tức cửu tự cù lao, chỉ công lao khó nhọc của bố mẹ. (Cù 劬: nhọc nhằn; lao: khó nhọc). Theo Kinh Thi, chín chữ cù lao gồm: Sinh - đẻ, cúc - nâng đỡ, phủ - vuốt ve, súc - cho bú mớm lúc nhỏ, trưởng - nuôi cho lớn, dục - dạy dỗ, cố - trông nom săn sóc, phục - xem tính nết mà dạy bảo cho thành người tốt, và phúc - giữ gìn.
 
- 
    - Nguyệt hoa
- Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.
Cởi tình ra đếm, ra đong 
 Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?
 (Tơ xuân - Huy Trụ)
 
- 
    - Qua
- Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín).
 
- 
    - Son
- Còn trẻ chưa có vợ, chưa có chồng.
 
- 
    - Lía
- Dân gian còn gọi là chàng Lía, chú Lía, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách thống trị của nhà Nguyễn vào thế kỉ 18 nổ ra tại Truông Mây, Bình Định. Có giả thuyết cho rằng ông tên thật là Võ Văn Doan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn). Lía tập hợp dân nghèo nổi dậy, chọn Truông Mây (Hoài Ân, Bình Định) làm căn cứ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tương truyền sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông uất ức bỏ lên núi và tự sát.
 
- 
    - Anh hào
- Anh hùng hào kiệt, người có tài năng, chí khí. Hội anh hào là dịp để anh hào gặp và thi thố lẫn nhau để lập nên những công trạng hiển hách.
Đường đường một đấng anh hào, 
 Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Sơn hà
- Núi sông (từ Hán Việt). Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước.
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư 
 Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
 Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
 Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
 (Lý Thường Kiệt)Dịch thơ: Sông núi nước Nam vua Nam ở 
 Rành rành định phận tại sách trời
 Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
 Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
 
- 
    - Chiêu binh mãi mã
- Chiêu mộ binh lính và mua ngựa chiến (để chuẩn bị cho chiến tranh). Hiểu rộng ra là tập hợp lực lượng, vây cánh.
 
- 
    - Dung
- Biết là việc xấu, sai nhưng vẫn để tồn tại.
 
- 
    - Lâu la
- Từ chữ Hán 嘍囉, chỉ quân lính, tay chân của giặc cướp.
 
- 
    - Trào đàng
- Triều đình (cách nói cũ của Trung và Nam Bộ).
Trạng nguyên tâu trước trào đàng, 
 Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
 (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
 
- 
    - Bá quan
- Từ chữ Hán Việt bá 百 (trăm), và quan 官 (quan lại), chỉ tất cả các quan lại trong triều đình. Cũng nói là bá quan văn võ.
 
- 
    - Ngự sử
- Tên chung của một số chức quan có nhiệm vụ giám sát từ cấp cao nhất (vua) đến các cấp quan lại.
 
- 
    - Lai do
- Nguyên do sự việc.
 
- 
    - Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Phú hào
- Những người giàu và có thế lực ở nông thôn thời phong kiến (từ Hán Việt).
 
- 
    - Rày
- Nay, bây giờ (phương ngữ).
 
- 
    - Dè
- Ngờ (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Binh nhung
- Binh 兵 (binh lính) và nhung 戎 (vũ khí, binh lính). Chỉ binh khí, quân đội, hoặc hiểu rộng ra là việc quân.
 
- 
    - Nam hoàng
- Vua nước Nam.
 
- 
    - Quản
- E ngại (từ cổ).
 
- 
    - Lã Bố
- Cũng gọi là Lữ Bố, tự là Phụng Tiên, một tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ở nước ta, Lã Bố được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, trong đó ông là một đại tướng vô cùng dũng mãnh, cưỡi ngựa Xích Thố, cầm phương thiên họa kích, có sức mạnh hơn cả Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân... Ông cũng được mô tả là một người khôi ngô tuấn tú, sánh cùng đại mĩ nhân là Điêu Thuyền.
 
- 
    - Chế
- Chị, cách gọi ở một số địa phương vùng Tây Nam Bộ (như Bạc Liêu, Cà Mau), gốc từ tiếng của người Tiều Châu.
 
- 
    - Điêu Thuyền
- Một trong tứ đại mĩ nhân của Trung Quốc. Sắc đẹp của Điêu Thuyền được ví như "bế nguyệt" (khiến trăng xấu hổ phải giấu mình đi). Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Vương Doãn lập kế gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác hòng li gián Trác với con nuôi là Lã Bố, kết cục Lã Bố giết Đổng Trác rồi sau lại bị Tào Tháo giết chết. Tuy nhiên, sự tồn tại của nhân vật Điêu Thuyền trong lịch sử vẫn còn nhiều hoài nghi.
 
- 
    - Trảy
- Hái, ngắt.
 
- 
    - Cau
- Loại cây nhiều đốt, thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu.
 
- 
    - Giòn
- Xinh đẹp, dễ coi (từ cổ).
 
- 
    - Chõng
- Đồ dùng để nằm, ngồi, làm bằng tre nứa, giống như chiếc giường nhưng nhỏ, hẹp hơn. Ngày xưa, những nhà buôn bán nhỏ thường xếp hàng hóa lên một chiếc chõng, gọi là chõng hàng.
 
- 
    - Đồng kẽm
- Đồng tiền làm bằng kẽm. Thời phong kiến, tiền tệ lưu thông gồm bốn loại: vàng, bạc, tiền đồng, tiền kẽm. Vàng bạc là quý nhất. Tiền kẽm có giá trị thấp nhất. Một đồng tiền đúc bằng đồng (gọi là tiền tốt) có giá trị gấp sáu lần một đồng tiền kẽm.
 
- 
    - Rau cần
- Một loại rau xanh thường được nhân dân ta trồng để nấu canh, xào với thịt bò, hoặc làm vị thuốc.
 
- 
    - Năm xung tháng hạn
- Thời kì gặp nhiều rủi ro, tai họa, theo quan điểm về lí số. Ví dụ, những người sinh vào năm thân thì dễ gặp xui xẻo trong những "năm xung" là Dần, Thân, Tị, Hợi.
 
- 
    - Bồ hòn
- Cây to cùng họ với vải, nhãn, quả tròn, khi chín thì thịt quả mềm như mạch nha. Quả bồ hòn có vị rất đắng, có thể dùng để giặt thay xà phòng.
 
- 
    - Trang
- Đồ bằng gỗ, được đóng hoặc treo trên tường, chỗ cao ráo, trang trọng để thắp nhang, đặt bình hoa và các vật phẩm khác để thờ cúng ông bà tổ tiên.
 
- 
    - Nón bài thơ
- Loại nón nổi tiếng của xứ Huế, giữa hai lớp lá nón có lồng ép thơ, ca dao hoặc/ và hình hoa văn trang trí, chỉ thấy được khi soi ngược sáng.
 
- 
    - Tấm triệu
- Còn gọi là minh tinh, dải lụa dài trên có chữ ghi tên họ, tuổi tác, chức tước, ngày từ trần… của người chết, treo trên một chiếc đòn nhỏ có người khiêng (gọi là giá triệu), được khiêng đi trước quan tài trong đám tang.
 
- 
    - Tiên sư
- Người dựng nên một thuyết hay một nghề nghiệp (từ Hán Việt).
 
- 
    - Ngự
- Từ dùng để chỉ những vật hay việc thuộc về hoàng cung. Về sau hiểu rộng ra, những vật quý đôi khi cũng gọi là ngự.
 
- 
    - Xuân nương
- Người con gái trẻ trung, xinh đẹp (từ Hán Việt).
 
- 
    - Lạt
- Tre hoặc nứa chẻ mỏng, dẻo, dùng làm dây buộc.
 
- 
    - Bẻ cò
- Bẻ gập lại thành từng khúc để đếm (mỗi khúc là một lần).
 
- 
    - Ve
- Cái ly (phiên âm từ danh từ tiếng Pháp "le verre"), còn được hiểu là chai nhỏ, lọ nhỏ.
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Bấc
- Sợi vải tết lại, dùng để thắp đèn dầu hoặc nến. Ở một số vùng quê, bấc còn được tết từ sợi bông gòn. Hành động đẩy bấc cao lên để đèn cháy sáng hơn gọi là khêu bấc.
 
- 
    - Tiền
- Năm 1439, vua Lê Thánh Tông quy định: 1 quan = 10 tiền = 600 đồng, gọi là tiền tốt hoặc tiền quý (quy định này ổn định cho đến năm 1945). Khoảng thế kỉ 18, trong dân gian xuất hiện cách tính tiền gián, mỗi quan tiền gián chỉ gồm 360 đồng.
 
- 
    - Sú ba dăng
- Phiên âm từ tiếng Pháp surveillant (người giám sát).
 
- 
    - Ba toong
- Gậy chống, thường cong một đầu để làm tay cầm. Từ này có gốc từ tiếng Pháp bâton. Các viên chức, trí thức dưới thời Pháp thuộc thường mang theo gậy này.
 
- 
    - Cô soong
- Con lợn (từ tiếng Pháp couchon), dùng làm tiếng chửi.
 
- 
    - Cu li
- Từ tiếng Pháp coolie, chỉ người lao động làm những công việc nặng nhọc.
 
- 
    - Mi nơ
- Từ tiếng Pháp miner (thợ mỏ).
 
- 
    - Thảo
- Viết ra.
 
- 
    - Đắc thời đắc lễ đắc nghi
- Được thời thì được lễ nghi (chữ Hán).
 
- 
    - Thất thế
- Mất thế lực, mất chỗ tựa. Từ chữ Hán thất 失 (mất) và thế 勢 (thế lực).
 
- 
    - Thất nghiệp
- Không có nghề nghiệp, việc làm.
 
- 
    - Mãn kiếp
- Suốt đời, cho đến tận lúc chết (thường nói về việc không hay).
 
- 
    - Phong lưu
- Ngọn gió bay (phong), dòng nước chảy (lưu). Từ này vốn nghĩa là phẩm cách, tinh thần riêng của mỗi người, hiểu rộng ra là sung sướng, vui với cảnh, không phải chịu buồn khổ.
Cõi trần thế nhân sinh là khách cả 
 Nợ phong lưu kẻ giả có người vay
 (Nợ phong lưu - Nguyễn Công Trứ)
 
- 
    - Chí
- Đến, kéo dài cho đến (từ Hán Việt).
 
- 
    - Căn
- Gốc rễ (chữ Hán). Khái niệm căn thường được gặp trong lí thuyết Phật giáo, chỉ những điều căn bản, gốc rễ của nhận thức, sự việc.
Thiện căn ở tại lòng ta 
 Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Số kiếp
- Vận mệnh của một đời người.
 
- 
    - Lâm bô
- Có nguồn gốc từ danh từ limbo trong tiếng Bồ Đào Nha, có nghĩa là một nơi giam cầm các linh hồn hay đang ở vào một tình trạng nào đó dang dở.
 
- 
    - Cửu
- Số chín, thứ chín (từ Hán Việt)
 
- 
    - Lợn lạo
- Có thể là cách đọc trại đi của từ lộn lạo.
 
- 
    - Mơ
- Một loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, có hoa trắng hoặc đỏ, nở vào mùa xuân. Quả mơ vị chua chát, dùng để làm nước ép, ướp đường, làm ô mai, làm rượu, mứt, hoặc chế biến thành các món canh.
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. 
 
- 
    - Mận
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, hoa trắng, nở vào mùa xuân. Quả mận vị chua ngọt, có loại vỏ màu tím, xanh nhạt, vàng, hay đỏ. Các bộ phận của cây mận như quả, rễ, nhựa, lá, nhân hạt... đều có tác dụng chữa bệnh.
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. 
 
- 
    - Đào
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, cũng được trồng để lấy quả hay hoa. Hoa đào nở vào mùa xuân, là biểu tượng của mùa xuân và ngày Tết ở miền Bắc. Quả đào vị ngọt hoặc chua, mùi thơm, vỏ quả phủ một lớp lông mịn. Đào xuất hiện rất nhiều trong văn học cổ Trung Quốc và các nước đồng văn. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
 
- 
    - Mít
- Loại cây ăn quả thân gỗ nhỡ, lá thường xanh, cao từ 8-15m. Cây ra quả vào mùa xuân, quả chín vào mùa hè. Vỏ quả có gai xù xì, ruột chứa nhiều múi, vị ngọt, có loại mít dai và mít mật. Mít là loại cây quen thuộc ở làng quê nước ta, gỗ mít dùng để làm nhà, đóng đồ đạc, thịt quả để ăn tươi, sấy khô, làm các món ăn như xôi mít, gỏi mít, hạt mít ăn được, có thể luộc, rang hay hấp, xơ mít dùng làm dưa muối (gọi là nhút), quả non dùng để nấu canh, kho cá...
 
- 
    - Dứa
- Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá.
 
- 
    - Hồng bì
- Cũng gọi là quất bì, quất hồng bì hoặc hoàng bì, một loại cây được trồng nhiều ở miền Bắc. Quả hồng bì khi chín có vị chua, mùi thơm, có thể để ăn tươi, làm mứt, cất rượu hoặc làm thuốc.
 
- 
    - Nghinh hôn
- Cũng nói là nghênh hôn, nghĩa là đón dâu. Đây là một lễ trong phong tục cưới hỏi của người Việt.
 
- 
    - Sính lễ
- Lễ vật của nhà trai đem đến nhà gái để xin cưới.
 
- 
    - Hồng
- Loại cây cho trái, khi chín có màu vàng cam hoặc đỏ. Tùy theo giống hồng mà quả có thể giòn hoặc mềm, ngọt hoặc còn vị chát khi chín.
 
- 
    - Sịa
- Đồ đan bằng tre, nứa, lòng nông, mắt thưa, nhỏ hơn cái nia, dùng để phơi hoặc sấy.
 
- 
    - Dưa gang
- Một loại dưa quả dài, vỏ xanh pha vàng cam (càng chín sắc vàng càng đậm), kích thước tương đối lớn.
 
- 
    - Chình
- Cái chĩnh nhỏ, dùng để đựng gạo hoặc mắm (phương ngữ).
 
- 
    - Nồi bảy, nồi ba
- Cách phân loại độ lớn của nồi thời xưa. Nồi bảy nấu được bảy lon gạo, nồi ba nấu được ba lon.
 
- 
    - Mướp đắng
- Miền Trung và miền Nam gọi là khổ qua (từ Hán Việt khổ: đắng, qua: dưa) hoặc ổ qua, một loại dây leo thuộc họ bầu bí, vỏ sần sùi, vị đắng, dùng làm thức ăn hoặc làm thuốc.
 
- 
    - Ki
- Một loại giỏ đan bằng nan tre (tương tự như cần xé) thường gặp ở Trung và Nam Bộ, dùng để đựng trái cây, nông sản.
 
- 
    - Gia
- Nhà (từ Hán Việt).
 
- 
    - Cương thường
- Cũng đọc là cang thường, cách nói tắt của tam cương ngũ thường, một khái niệm về đạo lí của Nho giáo trong chế độ phong kiến dành cho nam giới. Tam cương nghĩa là ba giềng mối (cương là đầu mối của lưới, nắm được cương thì các mắt lưới sẽ giương lên), gồm có quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), và phu phụ (chồng vợ). Ngũ thường (năm đức tính phải có) gồm: Nhân (đức khoan dung), lễ (lễ độ), nghĩa (đạo nghĩa), trí (trí tuệ) và tín (lòng thành thật).
Trong ca dao - dân ca, đạo cang thường thường dùng để chỉ tình cảm vợ chồng. 
 
- 
    - Trung lương
- Trung chính và lương thiện.
 
- 
    - Xã tắc
- Đất nước (xã là đất, tắc là một loại lúa).
 
- 
    - Jê-cờ-ri
- Tôi viết (từ tiếng Pháp J'écris).
 
- 
    - Ăng-voa
- Gửi (từ tiếng Pháp envoie).
 
- 
    - Me xừ
- Từ tiếng Pháp monsieur, nghĩa là "quý ông."
 
- 
    - Tú xon
- Cô đơn, một mình (từ tiếng Pháp tout seul).
 
- 
    - Đờ-puy
- Từ khi (từ tiếng Pháp depuis).
 
- 
    - Nô-xờ
- Tiệc cưới (từ tiếng Pháp noce).
 
- 
    - Ê-loa-nhê
- Xa cách (từ tiếng Pháp éloigné).
 
- 
    - Cu-tô
- Con dao (từ tiếng Pháp couteau).
 
- 
    - La cua
- Cái sân (từ tiếng Pháp la cour).
 
- 
    - Mút
- Rêu (từ tiếng Pháp mousse).
 
- 
    - Luyn
- Mặt trăng (từ tiếng Pháp lune).
 
- 
    - La săm
- Buồng (từ tiếng Pháp la chambre).
 
- 
    - A-mi
- Bạn thân, bạn gái (từ tiếng Pháp amie).
 
- 
    - Sơ-mi
- Nghĩa gốc là áo lót (từ tiếng Pháp chemise). Ngày nay, sơ mi có cổ áo, tay áo và hàng nút phía trước.
 
- 
    - Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
 
- 
    - Lơ li
- Cái giường (từ tiếng Pháp le lit).
 
- 
    - Biếng ba
- Xanh xao (từ tiếng Pháp bien pale).
 
- 
    - Pơ-răng qua
- Lấy gì (từ tiếng Pháp prendre quoi).
 
- 
    - Uyn lét
- Một lá thư (từ tiếng Pháp une lettre).
 
- 
    - Ca-đô
- Quà (từ tiếng Pháp cadeau).
 
- 
    - Ba-tô
- Tàu thủy (từ tiếng Pháp bateau).
 
- 
    - Lác-mơ
- Nước mắt (từ tiếng Pháp larme).
 
- 
    - Hồ Trúc Bạch
- Tên một cái hồ thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Hồ được cho là một phần của hồ Tây trước kia, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (sau đọc thành Cổ Ngư, giờ là đường Thanh Niên). Trước hồ thuộc làng Trúc Yên, ven hồ có Trúc Lâm viện là nơi chúa Trịnh giam giữ các cung nữ phạm tội. Những cung nữ này làm nghề dệt lụa để kiếm sống. Vì lụa đẹp nổi tiếng, nên dân gian lấy đó làm tên gọi cho hồ (Trúc Bạch nghĩa là lụa làng Trúc).
 
- 
    - Xi vu lét-xê moa
- Nếu anh để lại cho tôi (từ tiếng Pháp si vous laissez moi).
 
- 
    - Bông cờ
- Lòng tốt (từ tiếng Pháp bon cœur).
 
- 
    - Ta xơ
- Chị gái của anh (từ tiếng Pháp ta sœur).
 
- 
    - Ơ-rơ
- Sung sướng (từ tiếng Pháp heureux).
 
- 
    - Lơ roa
- Vua (từ tiếng Pháp le roi).
 




























