Tìm kiếm "Chuối"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Không ngon cũng bánh lá gai
- 
        
        
        
    
    Vè nói trạngLáo thiên láo địa, 
 Láo từ ngoài Sịa láo vô
 Ngồi buồn nói chuyện láo thiên:
 Lúc nhỏ tôi có đi khiêng ông Trời
 Ra đồng thấy muỗi bắt dơi,
 Bọ hung làm giỗ có mời ông voi
 Nhà tôi có một củ khoai,
 Xắt ra bảy thúng hẳn hòi còn dư
 Nhà tôi có một củ từ,
 Bới lên một củ nó hư cả vườn.
 Tôi vừa câu được con lươn
 Cái thịt làm chả, cái xương đẽo chày
 Nhà tôi có một cối xay
 Đầu cong bịt bạc, đầu ngay bịt vàng …
- 
        
        
        
    
    Bậu giận anh lại cười mơn
- 
        
        
        
    
    Cắn ngón tay trỏ lấy máu đề thơ
- 
        
        
        
    
    Gió đưa lắt lẻo cột chòi
- 
        
        
        
    
    Ông phật ngồi cũng phải thắt cười
- 
        
        
        
    
    Ai bưng bầu rượu tới đó thì chịu khó bưng vềAi bưng bầu rượu tới đó thì chịu khó bưng về, 
 Kẻo em đây đang còn theo chân thầy mẹ cho trọn bề hiếu trungDị bản
- 
        
        
        
    
    Công anh làm rể chương đàiCông anh làm rể chương đài 
 Ăn hết mười một, mười hai vại cà
 Giếng đâu thì dắt anh ra
 Chẳng thì anh chết với cà đêm nay!Dị bản- Công anh làm rể có tài 
 Một mình ăn hết mười hai vại cà
 Giếng đâu thì dắt anh ra
 Kẻo mà anh chết theo cà nhà em
 
- 
        
        
        
    
    Cây đa trốc gốc, thợ mộc đương cưaCây đa trốc gốc, thợ mộc đương cưa 
 Anh với em bề ngang cũng xứng, bề đứng cũng vừa
 Bởi tại cha với mẹ kén lừa sui giaDị bản
- 
        
        
        
    
    Ai về nhắn với nậu nguồnDị bảnVideo
- 
        
        
        
    
    Lấy anh, anh sắm sửa choLấy anh, anh sắm sửa cho: 
 Cái bị, cái bát, cái quạt mo đuổi ruồi.Dị bản- Lấy anh, anh sắm đồ cho, 
 Sắm bị, sắm gậy, sắm mo đuổi ruồi.
 
- 
        
        
        
    
    Tiếng đồn chị Bốn có duyênTiếng đồn chị Bốn có duyên 
 Anh Bốn đi cưới một thiên cá mòi
 Chẳng tin giở quả ra coi
 Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên!Dị bản- Tiếng đồn con gái Phú Yên 
 Đồng Nai đi cưới một thiên cá mòi
 Chẳng tin giở quả ra coi
 Rau răm ở dưới cá mòi ở trên
- Chị gì bới tóc đuôi tiên 
 Chồng chị ăn hỏi một thiên cá mòi
 Không tin thì mở ra coi
 Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên
- Cô kia bới tóc cánh tiên 
 Ghe bầu đi cưới một thiên cá mòi
 Chẳng tin giở thử ra coi
 Rau răm ở dưới cá mòi ở trên
 
- 
        
        
        
    
    Con cá đối nằm trên cối đáCon cá đối nằm trên cối đá 
 Chim đa đa đậu nhánh đa đa
 Chồng gần không lấy, bậu lấy chồng xa
 Mai sau cha yếu mẹ già
 Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ trà ai dưng?Dị bản- Con cá đối nằm trên cối đá 
 Con chim đa đa đậu nhánh đa đa
 Anh khuyên em đừng lấy chồng xa
 Lỡ khi cha yếu mẹ già
 Cơm canh ai nấu, mẹ già ai trông?
- Chim đa đa đậu nhánh cây đa 
 Chồng gần sao em không lấy để lấy chồng xa
 Mai sau cha yếu mẹ già
 Gối nghiêng không ai sửa, chén trà không ai dâng
 
- 
        
        
        
    
    Anh đang viết liễn trong đìnhDị bản- Anh đương viết liễn trong đình, 
 Nghe chồng em nói, giật mình té lăn.
 
- 
        
        
        
    
    Trèo lên cây gạo cao cao
- 
        
        
        
    
    Em là con gái nhà quêEm là con gái nhà quê 
 Ham bên tài sắc nhiều bề ái ân
 Chẳng ham tham phú phụ bần
 Duyên rằng duyên phải nợ nần nhau đây
 Chàng có sang, chàng phải chọn ngày
 Mối manh cho rõ xe dây xích thằng
 Cầm cân chàng nhấc cho bằng
 Một bên cối đá một đằng tiền cheo
 Hỏi chàng rằng có hay nghèo
 Lệ làng phải sửa bấy nhiêu mới từng …
- 
        
        
        
    
    Không trơn mà trượt mới tàiKhông trơn mà trượt mới tài 
 Không chồng mà đẻ con trai mới tình
 Nâng lên đặt xuống một mình
 Than rằng: con ở trong mình mẹ ra
 Có con mà chẳng có cha
 Lòng mẹ chua xót người ta chê cười
 Bởi vì mẹ cợt mẹ cười
 Cho nên mẹ đẻ mẹ nuôi một mình
- 
        
        
        
    
    Con chim chìa vôi bay qua đám thuốc
- 
        
        
        
    
    Chỉ xanh chỉ đỏ chỉ vàngChỉ xanh chỉ đỏ chỉ vàng 
 Một trăm thứ chỉ bắc ngang đầu cầu
 Nào em đã có chồng đâu
 Mà chàng đón trước rào sau làm gì
Chú thích
- 
    - Chuôm
- Chỗ trũng có đọng nước ở ngoài đồng.
 
- 
    - Bánh ít lá gai
- Gọi tắt là bánh gai, một loại bánh ít đặc sản của miền Trung. Bánh làm từ lá gai quết nhuyễn với bột dẻo, tạo cho lớp áo ngoài của bánh có màu xanh đen đặc trưng. Nhưn (nhân) bánh thường là đậu xanh, dừa, đường, thêm chút quế và vani để tạo mùi thơm; đôi khi người ta cũng làm nhân bánh từ tôm xào với thịt, tạo ra món bánh ít mặn.
 
- 
    
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Nhứt Trò.
 
- 
    - Sịa
- Một địa danh nay là tên thị trấn của huyện Quảng Điền nằm ở phía bắc của Thừa Thiên-Huế, cách thành phố Huế khoảng 30km theo hướng Đông trên Quốc lộ 1. Về tên Sịa, có một số giả thuyết:
- Sịa là cách đọc trại của sỉa, cũng như sẩy (trong sẩy chân), nghĩa là vùng trũng, vùng sỉa, lầy. 
 - Sịa là cách đọc trại của sẻ. Vùng Sịa xưa là vùng có nhiều lúa, chim sẻ thường về.
 - Sịa là cách đọc trại của sậy, vì trước đây vùng này nhiều lau sậy.
 
- 
    - Láo thiên
- Tương tự "láo địa", cùng nghĩa là nói tào lao, nói dóc trên trời dưới đất
 
- 
    - Bọ hung
- Một loài bọ cánh cứng ăn phân, đầu có râu và sừng cứng chắc, ngực gắn 6 chân.
 
- 
    - Khoai từ
- Loại khoai thuộc họ củ nâu. Ở Việt Nam, loại có gai phân bố ở Phú Quốc, loại không gai phân bố rộng rãi, ngoài ra còn có củ từ nước mọc ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Khoai từ thường dùng làm lương thực, thực phẩm và là một vị thuốc với nhiều công dụng.
 
- 
    - Lươn
- Loài cá nước ngọt, thân hình trụ, dài khoảng 24-40 cm, đuôi vót nhọn, thoạt nhìn có hình dạng như rắn. Lươn không có vảy, da trơn có nhớt, màu nâu vàng, sống chui rúc trong bùn ở đáy ao, đầm lầy, kênh mương, hay ruộng lúa. Lươn kiếm ăn ban đêm, thức ăn của chúng là các loài cá, giun và giáp xác nhỏ. 
Ở nước ta, lươn là một loại thủy sản phổ biến, món ăn từ lươn thường được coi là đặc sản. Lươn được chế biến thành nhiều món ngon như: cháo lươn, miến lươn, lươn xào... 
 
- 
    - Chày giã gạo
- Ngày xưa người ta giã gạo trong cối, dùng chày. Chày là một cây gỗ cứng, nặng, đầu nhẵn, phần giữa thuôn nhỏ (gọi là cổ chày).
 
- 
    - Cối xay
- Dụng cụ nhà nông dùng để bóc vỏ hạt thóc, tách trấu ra khỏi hạt gạo, hoặc để nghiền các hạt nông sản. Ngày nay cối xay ít được sử dụng vì được thay thế bằng các loại máy xay công nghiệp có hiệu suất cao hơn.
 
- 
    - Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Cười mơn
- Cười cầu tài, tỏ ý biết lỗi (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Thơ
- Thư (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Chòi
- Một dạng lều được dựng nơi có địa thế cao để canh giữ, thường được làm bằng tre lá.
 
- 
    - Rứa
- Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Thắt cười
- Mắc cười, buồn cười (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Bận
- Mặc (quần áo).
 
- 
    - Thầy mẹ
- Cha mẹ (phương ngữ miền Bắc).
Con đi mười mấy năm trời, 
 Một thân, một bóng, nửa đời gió sương.
 Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương,
 Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
 Thầy mẹ ơi, thầy mẹ ơi,
 Tiếc công thầy mẹ đẻ người con hư!
 (Thư gửi thầy mẹ - Nguyễn Bính)
 
- 
    - Từ mẫu
- Mẹ hiền (từ Hán Việt).
 
- 
    - Làm mai
- Còn gọi là làm mối, mai mối. Người làm mai gọi là ông (bà) mối hay ông (bà) mai, là người đứng trung gian, giới thiệu cho hai bên trai gái làm quen hoặc cưới nhau.
 
- 
    - Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
 
- 
    - Chương đài
- Chương Đài nguyên là tên một tòa cung điện do nhà Tần dựng lên ở huyện Tràng An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Sau này chương đài dùng làm tên chung, chỉ nơi lầu (đài) cao, sang trọng.
 
- 
    - Vại
- Đồ đựng bằng sành, gốm, hình trụ, lòng sâu, để đựng nước hoặc mắm.
 
- 
    - Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
 
- 
    - Kén lừa
- Kén chọn.
 
- 
    - Phân
- Nói cho rõ, bày tỏ.
 
- 
    - Nậu
- Nghĩa gốc là một nhóm nhỏ cùng làm một nghề (nên có từ "đầu nậu" nghĩa là người đứng đầu). Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm... Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng,” “bả.” Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh,” “chỉ.” Và thế là “Nậu” được thay bằng “Nẩu” hoặc "Nẫu" do đặc điểm không phân biệt dấu hỏi/ngã khi phát âm của người miền Trung. Người dân ở những vùng này cũng gọi quê mình là "Xứ Nẫu."
 
- 
    - Cá chuồn
- Tên một họ cá biển có chung một đặc điểm là có hai vây ngực rất lớn so với cơ thể. Hai vây này như hai cánh lượn, giúp cá chuồn có thể "bay" bằng cách nhảy lên khỏi mặt nước và xòe vây lượn đi, có thể xa đến khoảng 50 mét. Cá chuồn sống ở những vùng biển ấm, thức ăn chủ yếu của chúng là các phiêu sinh vật biển.
Ở nước ta, cá chuồn có nhiều ở những vùng biển miền Trung. Cá chuồn có thể chế biến thành nhiều món ăn như nướng, kho, nấu bún... 
 
- 
    - Thiên
- Một nghìn (từ Hán Việt, từ cổ).
 
- 
    - Cá mòi
- Một loại cá thuộc họ cá trích, có tập tục bơi thành đàn từ biển ngược lên nguồn vào tháng giêng để đẻ trứng, vì vậy nhân dân ta thường giăng lưới bắt cá mòi ở sông vào dịp này. Cá mòi ngon nhất là trứng cá, và thường được chế biến thành các món nướng, món kho. Cá mòi có hai loại: cá mòi lửa và cá mòi he.
 
- 
    - Quả
- Đồ đựng hình tròn, có nắp đậy, thường được dùng để đựng lễ vật khi đi hỏi cưới.
 
- 
    - Rau răm
- Một loại cây nhỏ, lá có vị cay nồng, được trồng làm gia vị hoặc để ăn kèm.
 
- 
    - Phú Yên
- Một địa danh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, có bề dày văn hóa, du lịch, với các lễ hội bài chòi, lễ hội đầm Ô Loan, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả... và các thắng cảnh như gành Đá Dĩa, vịnh Xuân Đài...
 
- 
    - Đồng Nai
- Tên gọi chung của toàn thể miền đồng bằng Nam Bộ, phổ biến vào thế kỉ 19 trở về trước, nay được giới hạn để chỉ một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Lịch sử của Đồng Nai gắn liền với lịch sử của vùng đất Nam Bộ, khi có làn sóng di dân từ Bắc vào Nam trong cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh vào thế kỉ 16. Hiện nay Đồng Nai là cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ, đồng thời là một trong ba mũi nhọn kinh tế miền Nam cùng với thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương.
 
- 
    
- Theo Bảo Định Giang: Một thiên [cá] mòi theo cách quen dùng của một số địa phương là tính con số trăm chứ không tính con số ngàn [...] đã thế lại thêm rau răm là món độn dưới đáy quả, cá mòi xếp lên mặt quả, quả trông đầy nhưng được mấy con (Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX).
 
- 
    - Ghe bầu
- Loại ghe (thuyền) đi biển chạy bằng buồm, chủ yếu dùng để vận chuyển hàng hóa. Ghe bầu ra đời từ giữa thế kỷ 16, có nguồn gốc tương đồng với loại thuyền prao (hay prau) của Mã Lai. Tên "ghe bầu" bắt nguồn từ tiếng Khmer xòm pầu.
 
- 
    - Cá đối
- Một loại cá có thân tròn dài, dẹt, vảy tròn, màu bạc. Cá đối được chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn như cá đối nướng, cá đối chiên, cá đối kho dưa cải, cháo cá...
 
- 
    - Đa đa
- Còn gọi là gà gô, một loài chim rừng, thường sống trên cây hoặc trong các bụi rậm trên núi cao, ăn sâu bọ, đuôi ngắn. Đa đa thường bị săn bắt để lấy thịt.
 
- 
    - Kỷ trà
- Bàn nhỏ bằng gỗ, thấp, thường được chạm trổ tinh vi. Người xưa khi uống trà thường đặt tách và ấm trà lên trên kỷ.
 
- 
    - Dưng
- Dâng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Liễn
- Dải vải hoặc giấy, hoặc tấm gỗ dài dùng từng đôi một, trên có viết câu đối, thường mang ý nghĩa tốt đẹp, cầu hạnh phúc may mắn cho chủ nhà. Liễn thường được treo song song với nhau, gọi là cặp (đôi) liễn.
 
- 
    - Nghiên
- Đồ dùng để mài mực hoặc son khi viết chữ Hán hoặc gần đây là thư pháp.
 
- 
    
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Tam Quăng.
 
- 
    - Gạo
- Loại cây thân mộc, có hoa đỏ thường nở vào tháng 3 âm lịch, thời điểm hết xuân sang hè. Cũng như cây đa, cây hoa gạo là một nét bản sắc quen thuộc của làng quê Việt Nam, thường mọc ở đầu làng, cạnh đình, bến sông... Hoa gạo còn có tên Hán Việt là mộc miên, người Tây Nguyên gọi là hoa pơ-lang.
 
- 
    - Cheo
- Khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái khi làm lễ dạm hỏi theo tục lệ xưa.
 
- 
    - Đông Phù
- Tên nôm là làng Nhót, nay thuộc xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Trước đây Đông Phù là vùng đất trọng yếu ở phía nam kinh thành Thăng Long, nơi có đường bộ, đường thuỷ khá thuận tiện cho việc giao thương. Thời 12 sứ quân, tướng Nguyễn Siêu lập đại bản doanh ngay trên đất này, nay còn dấu vết thành luỹ. Cuối năm 1426, Bình Định Vương Lê Lợi bao vây quân Minh ở thành Đông Quan, đã đặt sở chỉ huy tại đình làng. Hơn 300 năm sau, đại quân Nguyễn Huệ từ Phú Xuân ra giải phóng Thăng Long cũng có qua Đông Phù.
 
- 
    - Vồ
- Dụng cụ gồm một đoạn gỗ chắc và nặng có tra cán, dùng để nện, đập. Trong nông nghiệp, vồ được dùng để đập cho đất nhỏ ra.
 
- 
    - Giã ơn
- Cảm tạ ơn.
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn 
 (Nhị Độ Mai)
 
- 
    - Ái ân
- Nguyên nghĩa là tình ái và ân huệ khắng khít với nhau. Về sau được hiểu là sự âu yếm, giao hợp của vợ chồng hay cặp tình nhân.
 
- 
    - Tham phú phụ bần
- Vì ham giàu (phú) mà phụ bạc người nghèo khó (bần).
 
- 
    - Mối manh
- Làm mối (đồng nghĩa với mai mối).
 
- 
    - Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
 
- 
    - Chìa vôi
- Một loại chim giống sẻ, đuôi dài, lông có hai màu đen trắng.
 
- 
    - Cá bã trầu
- Một loại cá biển thân dẹp, vẩy có màu hồng nhạt, mắt to. Cá cho thịt mềm, rất ngọt, được chế biến nhiều món ngon như nướng, chiên, nấu canh chua... Tùy vùng miền mà loại cá này có những cái tên khác nhau như cá thóc, cá mắt kiếng, cá trao tráo (hai tên sau có lẽ là dựa vào đặc điểm của mắt cá).
 
 
                                
                            


























