Chàng rể mà đến mụ gia
Đánh một cái “ủm” chết ba con mèo
Mụ gia cắp nón chạy theo:
Vợ chồng nhà đỏ đền mèo cho tao!
Tìm kiếm "cha ông"
-
-
Nước cực phải vớ lấy anh
Nước cực phải vớ lấy anh
Rau lang chấm muối, ngon lành nỗi chi! -
Mẹ hát con lại khen hay
-
Nhớ lời nguyện ước ba sinh
-
Trời cao hơn trán
Trời cao hơn trán
Trăng sáng hơn đèn
Kèn kêu hơn quyển
Biển rộng hơn sông
Anh đừng thương trước uổng công
Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thươngDị bản
Trời cao hơn trán, đuốc sáng hơn đèn
Kèn kêu hơn quyển, biển rộng hơn sông
Anh thương em linh láng tràn đồng
Bây giờ em lại kiếm chồng bỏ anh.
-
Gió đánh đò đưa gió đập đò đưa
Gió đánh đò đưa gió đập đò đưa
Sao cô mình lơ lửng mà chưa có chồng
Gió đánh cành hồng, gió đập cành hồng
Hỡi cô mình đã muốn lấy chồng hay chưa -
Lồng cồng như mẹ chồng xới xôi
Lồng cồng như mẹ chồng xới xôi
Bát đầy thì ít, bát vơi thì nhiều -
Chim khôn lựa cành mà đậu
Chim khôn lựa cành mà đậu
Gái khôn kiếm nơi nhân hậu mà nhờ
Đừng ham lấy công tử bột dật dờ tấm thânDị bản
Con chim khôn kiếm cành xanh mà đậu
Gái khôn kiếm trai đôn hậu làm chồng
Cô bác xa dòm ngó nói phụng với rồng sánh đôiChim khôn kiếm nơi lùm xanh nó đậu
Gái như em sao không kiếm nơi nhân hậu làm chồng
Thả chi theo đàng điếm đứng đường hư thânCon chim khôn kiếm cành lành mà đậu
Con gái khôn kiếm thằng chồng nhậu mà nhờ
Mai sau nó chết bụi, chết bờ, khỏi chôn!Chim khôn kiếm lùm cây mà đậu
Gái khôn kiếm thằng chồng nhậu mà nhờ
Mai sau nó chết bụi chết bờ khỏi chôn!Chim khôn tìm cây lành mà đậu
Gái khôn tìm thằng chồng nhậu mà nhờ
Mai kia nó chết bụi chết bờ
Khỏi lo nhang khói phụng thờ uổng công
-
Chim quyên hút mật bông quỳ
-
Chàng ràng chi lắm bướm ơi
-
Em ngồi một mình, em nghĩ một mình
Em ngồi một mình, em nghĩ một mình
Nghĩ thân em chẳng bạc tình với ai
Nên chăng bởi khách Chương Đài
Thành sầu bể thảm có ai với mình -
Đèn treo cột phướn, gió chướng hao dầu,
Dị bản
Đèn lồng treo cột phướn, gió chướng thổi hao dầu,
Em có thương anh thì để dạ, chớ có rầu mà hư thân.Gió đưa cột phướn hao dầu
Thương em để dạ, chớ sầu mà hư!
-
Con gái mà lấy chồng quan
Dị bản
-
Đầu làng có cây đa cao
-
Chồng bát chồng đĩa chồng sứ chồng sành
Chồng bát chồng đĩa chồng sứ chồng sành
Chồng ở chẳng lành, chồng ra bờ tre -
Gái có con như bồ hòn có rễ
-
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
-
Nghe lời bạn nói đậm đà
-
Quen việc nhà nạ, lạ việc nhà chồng
-
Hai đứa mình như áo cắt chưa may
Hai đứa mình như áo cắt chưa may
Thương ngày nào đỡ ngày nấy, chớ chông gai khó lường
Chú thích
-
- Bà gia
- Mẹ chồng hoặc mẹ vợ (cách gọi của một số địa phương miền Trung).
-
- Đỏ
- Con gái (phương ngữ Bắc Bộ).
-
- Quản
- Người Nam Bộ đọc là quyển, một loại nhạc cụ hình ống giống như ống sáo, ống tiêu.
-
- Ngọt ngay
- Cũng nói là ngọt ngây, cách nói của Trung và Nam Bộ để mô tả vị ngọt đậm đà.
Quýt Cái Bè nổi tiếng ngọt ngây
Ai ăn rồi nhớ mãi miền Tây
(Hành trình trên đất phù sa - Thanh Sơn)
-
- Ba sinh
- Ba kiếp người: kiếp trước, kiếp này và kiếp sau, theo thuyết luân hồi của Phật giáo. Văn học cổ thường dùng chữ "nghĩa ba sinh" hoặc "nguyện ước ba sinh" để nói về sự gắn kết nam nữ.
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi?
(Truyện Kiều)
-
- Chương Đài
- Tên một con đường ở thành Trường An (Trung Quốc) thời Đường, nơi có nhiều lầu xanh. Nhà thơ Hàn Hoằng cưới một kĩ nữ họ Liễu làm vợ, nhà ở đường Chương Đài. Hàn Hoằng đi Thanh Châu nhậm chức, ba năm không về được, chỉ gửi cho vợ bài thơ: "Chương Đài liễu, Chương Đài liễu, tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều y cựu thùy, dã ưng phan chiết tha nhân thủ." (Liễu Chương Đài, Liễu Chương Đài, ngày trước xanh xanh giờ ở đâu? Dẫu rằng cành dài rủ như xưa, cũng tay người khác vin bẻ rồi). Liễu thị cũng làm thơ đáp lại. Về sau, Liễu thị bị tướng Phiên là Sa Tra Lợi bắt làm thiếp. Một tráng sĩ là Hứa Tuấn dùng bài thơ cũ của Hàn Hoằng làm tin, liên lạc với Liễu thị, rồi lập mưu cứu nàng đưa về sum họp với Hàn Hoằng.
Cụm khách Chương Đài dùng để chỉ người yêu, và liễu Chương Đài chỉ sự xa cách của hai người đang yêu.
Khi về hỏi liễu Chương Đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
(Truyện Kiều)
-
- Thiệt
- Thật (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Chữ này được đọc trại ra như vậy do kị húy bà vương phi Lê Thị Hoa (được vua Gia Long đặt tên là Thật).
-
- Công tử bột
- Trong tác phẩm Bến Nghé xưa, nhà văn Sơn Nam cho rằng thành ngữ Công tử bột có nguồn gốc từ một nhân vật trong hát bội tên là Hoa Bột, Ba Bột: "Hoặc hát khách thằng Bột: rượu bọt ngon, con gái tốt đẹp, xang xang xang cống xang xê cống cống xang xê. Hoa Bột, Ba Bột là tên của nhân vật xấu gần như vai hề, tính tình kiêu hãnh trong tuồng hát bội (nay hãy còn gọi là công tử bột). Trong Kim Thạch Kì Duyên của Thủ Khoa Nghĩa có bài hát thằng Bột: Cậu Ái Lang chữ đặt, cha tri phủ giàu sang, như nhà cụ: cửa nhà chớn chở bạc vàng, hầu thiếp nhởn nhơ điếu đỏ. Nói chi bạn hàng cũ, nuốn con gái nguyên. Cậu chơi hoài hoài, thiên hoàng thiến chi hoang, sướng đế sướng đê chí sướng…"
Ngày nay thành ngữ này dùng để chỉ những công tử, cậu ấm con nhà giàu, không biết làm việc gì, chỉ biết chơi (hoặc học).
-
- Đỗ quyên
- Có giả thuyết cho là chim cuốc. Theo hai học giả Đào Duy Anh và An Chi thì chim quyên là chim tu hú. Hình ảnh chim quyên trong ca dao dân ca thường tượng trưng cho những điều tốt đẹp.
-
- Quỳ
- Một loại sen, cũng gọi là sen quỳ. Nhìn theo vẻ ngoài thì sen và quỳ rất giống nhau, nhưng hoa quỳ có màu đậm hơn. Lá và gai quỳ có độc tính hơn sen, gây ngứa ngáy. Búp sen cũng có dạng bầu chứ không nhọn như búp quỳ.
-
- Chàng ràng
- Quanh quẩn, vướng bận, chậm chạp (để kéo dài thời gian hoặc gây chú ý).
-
- Phướn
- Cũng gọi là phiến hoặc phan, một loại cờ của nhà chùa, thường treo dọc, hình dải hẹp, phần cuối xẻ như đuôi cá.
-
- Gió chướng
- Một loại gió ở miền Nam, thổi ngược hướng sông Tiền, sông Hậu nên gọi là gió chướng. Gió thường thổi vào buổi chiều, trong khoảng thời gian bắt đầu từ cuối tháng 10 và kết thúc vào cuối tháng 4 tới trung tuần tháng 5 năm sau.
-
- Khái
- Con hổ.
-
- Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
-
- Bồ hòn
- Cây to cùng họ với vải, nhãn, quả tròn, khi chín thì thịt quả mềm như mạch nha. Quả bồ hòn có vị rất đắng, có thể dùng để giặt thay xà phòng.
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Rứa
- Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Nạ
- Mẹ. Theo học giả An Chi, đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn từ chữ 女 (nữ).