Dầu cho quá lứa em cũng chẳng hứa càn,
Phải duyên em giữ lòng vàng,
Không phải duyên kim cải em để hoa tàn nhụy pha
Tìm kiếm "dầu nàng"
-
-
Đau đẻ còn chờ sáng trăng
Đau đẻ còn chờ sáng trăng
-
Đầu trộm đuôi cướp
Đầu trộm đuôi cướp
-
Đầu làng có bụi chuối khô
-
Đầu thừa đuôi thẹo
Đầu thừa đuôi thẹo
-
Đầu bò đầu bướu
Đầu bò đầu bướu
-
Đầu mày cuối mắt
Đầu mày cuối mắt
-
Đầu trâu mặt ngựa
Đầu trâu mặt ngựa
-
Dẫu rằng chẳng đặng bén duyên
-
Dầu bông bưởi, dầu bông lài
Dị bản
Dầu bông bưởi, dầu bông lài
Xức vô tới tết còn hoài mùi cứt trâu
-
Đầu túm túm
-
Dẫu cho phụ mẫu rầy la
-
Dấu hèn cũng ngựa nhà quan
-
Dầu ai đem bụng chẳng ngay
-
Đầu thì cõng chúa
-
Dầu ai áo rách nón xơ
-
Dầu mà chàng có đa nghi
Dầu mà chàng có đa nghi
Dao vàng hớt mái tóc đi mà thề -
Dầu mà đó có nghi ngờ
Dầu mà đó có nghi ngờ
Mực đen giấy trắng làm tờ giao duyên -
Dầu thầy với mẹ không thương
-
Dầu mà quần áo một manh
Dầu mà quần áo một manh
Đói no cùng chịu, em anh chẳng rời
Chú thích
-
- Càn
- Ẩu, bừa (nói càn, làm càn).
-
- Kim cải
- Cây kim, hạt cải. Chỉ duyên vợ chồng khắng khít như nam châm hút kim, hổ phách hút hạt cải.
Kể từ kim cải duyên ưa
Đằng leo cây bách mong chờ về sau
(Quan Âm)
-
- Chửa
- Chưa (từ cổ, phương ngữ).
-
- Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
-
- Nhài
- Còn gọi là lài, loại cây nhỏ có hoa màu trắng rất thơm. Nhân dân ta thường dùng hoa lài để ướp trà.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Kiều khấu
- Bộ đồ trang sức cho con ngựa, gồm: hàm thiếc, nòng cổ, dây nịt lưng, dây cương, v.v. Bộ yên được trang trí phủ trên mình voi cũng gọi là kiều khấu.
-
- Má hồng
- Từ chữ hồng nhan (cũng nói là hường nhan ở Nam Bộ), từ dùng trong văn thơ cổ chỉ người con gái đẹp.
Phận hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
(Truyện Kiều)
-
- Tơ giao
- Trao tơ, chỉ sự ước hẹn xe tơ kết tóc. Xem thêm chú thích Nguyệt Lão.
-
- Chúa
- Chủ, vua.
-
- Sa
- Rơi xuống (từ Hán Việt).
-
- Áo dà
- Áo nâu, thường là trang phục của người tu hành.
-
- Cương thường
- Cũng đọc là cang thường, cách nói tắt của tam cương ngũ thường, một khái niệm về đạo lí của Nho giáo trong chế độ phong kiến dành cho nam giới. Tam cương nghĩa là ba giềng mối (cương là đầu mối của lưới, nắm được cương thì các mắt lưới sẽ giương lên), gồm có quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), và phu phụ (chồng vợ). Ngũ thường (năm đức tính phải có) gồm: Nhân (đức khoan dung), lễ (lễ độ), nghĩa (đạo nghĩa), trí (trí tuệ) và tín (lòng thành thật).
Trong ca dao - dân ca, đạo cang thường thường dùng để chỉ tình cảm vợ chồng.
-
- Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
-
- Thầy
- Cha, bố (phương ngữ một số địa phương Bắc và Bắc Trung Bộ).