Gái Thanh Khiết chuyên nghề cải giá
Trai Sung Tích chuyên nghề kén dâu
Tìm kiếm "Chuối"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Dung dăng dung dẻDung dăng dung dẻ, 
 Dắt trẻ đi chơi.
 Đến cửa nhà trời,
 Lạy cậu lạy mợ,
 Cho cháu về quê,
 Cho dê đi học,
 Cho cóc ở nhà,
 Cho gà bới bếp,
 Xì xà xì xụp
 Ngồi thụp xuống đây.Dị bản- Xúc xắc xúc xẻ 
 Dắt dế đi chơi
 Đến ngõ nhà Trời
 Lạy Cậu lạy Mợ
 Cho chó về quê
 Cho dê đi học
 Cho cóc ở nhà
 Cho gà bới bếp
 Xì xà xì xụp.
 
- 
        
        
        
    
    Ngồi buồn giả chước đi câu
- 
        
        
        
    
    Bánh dầy nhiều đậu thì ngon
- 
        
        
        
    
    Một giờ ra ngõ ngó trôngMột giờ ra ngõ ngó trông 
 Ngó lên ngó xuống cũng không thấy chàng
 Hai giờ ra đứng đầu làng
 Ngó lên ngó xuống không thấy chàng chàng ơi
 Ba giờ giả chước đi chơi
 Gặp người tình tứ gởi đôi lời nhắn nhe
 Bốn giờ gió ủ mây che
 Tưởng dè gần bạn ai ngờ mà xa
 Năm giờ dời gót về nhà
 Ngồi khoanh tay lại vậy mà sầu bi
 Sáu giờ đèn hạt lưu ly
 Nghĩ đi nghĩ lại không thấy gì người thương
 Bảy giờ dọn dẹp trong giường
 Đặt lưng xuống chiếu thả thường chiêm bao
 Tám giờ tim lửng, dầu hao
 Khi đi khi ở biết bao nhiêu tình
 Chín giờ nghĩ giận phận mình
 Trách răng căn số của mình mần ri
 Mười giờ còn biết nói chi
 Trách cho con tạo phân ly nghĩa tình
 Mười một giờ mây lạc trăng chênh
 Ai làm bạn cũ bênh lênh sao đành
 Mười hai giờ kêu thấu trời xanh
 Ai làm chim tước bỏ nhành lan mai.
- 
        
        
        
    
    Đêm khuya cưởi xuống dần dần
- 
        
        
        
    
    Rau muống bắt cuống rau răm
- 
        
        
        
    
    Lạ lùng bắt gặp chàng đây– Lạ lùng bắt gặp chàng đây 
 Có mấy câu này, em đoán chưa ra.
 Nếu mà anh giảng cho ra,
 Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh.
 Cái gì trong trắng ngoài xanh,
 Cái gì soi tỏ mặt anh mặt nàng,
 Cái gì xanh đỏ trắng tím vàng,
 Cái gì ăn phải dạ càng tương tư,
 Cái gì năm đợi tháng chờ,
 Cái gì tiện chũm phơi khô để dành,
 Cái gì mà đổ vào xanh,
 Cái gì nó ở trên cành mà lại tốt tươi,
 Cái gì trong héo ngoài tươi,
 Cái gì làm bạn với trời tám trăm năm,
 Cái gì chung chiếu chung chăn,
 Cái gì làm bạn với trăng đêm ngày,
 Cái gì nó bé nó cay,
 Cái gì nó bé nó hay cậy quyền? …
- 
        
        
        
    
    Tiếc thay cái giếng nước trong
- 
        
        
        
    
    Đêm nằm tôi nghĩ tôi rầuĐêm nằm tôi nghĩ tôi rầu 
 Làm dâu thật khổ từ đầu chí đuôi
 Ra thân tối mặt vùi đầu
 Các chị sung sướng riêng dâu mẹ hành
 Chê tôi khờ dại không lanh
 Mẹ đào mẹ chửi mẹ hành xót xa
 Công trình mẹ cha tôi đẻ tôi ra
 Gả cho con mẹ còn bù của thêm
 Phải thời chồng vợ trọn niềm
 Sui gia đi lại ấm êm ở đời
 Không nên mỗi đứa mỗi nơi
 Tôi ra khỏi cửa để mẹ kiếm nơi sang giàu
 Ở chi đây, mẹ mắng trước chửi sau
 Ngày nào mẹ cũng cứ nghèo giàu mẹ đay
- 
        
        
        
    
    Làng Võng bán lợn bán gà
- 
        
        
        
    
    Chơi con quốcChơi con quốc 
 Con quốc cho giò
 Chơi con bò
 Con bò cho nhau
 Chơi buồng cau
 Buồng cau cho trái
 Chơi con gái
 Con gái cho hun
 Chơi bụi môn
 Bụi môn cho bọc
 Chơi trường học
 Trường học cho bút
 Chơi bông bụt
 Bông bụt cho hoa …
- 
        
        
        
    
    Kẻ Dặm đục đá nấu vôiDị bản- Ai về Văn Tập mà coi, 
 Mồm thì thổi lửa tay lôi rành rành
 
- 
        
        
        
    
    Ông tiển ông tiênÔng tiển ông tiên 
 Ông có đồng tiền
 Ông giắt mái tai
 Ông cài lưng khố
 Ông ra hàng phố
 Ông mua miếng trầu
 Ông nhai nhóp nhép
 Ông mua con tép
 Về nhà ăn cơm …
- 
        
        
        
    
    Vè loài vậtVe vẻ vè ve 
 Cái vè loài vật
 Trên lưng cõng gạch
 Là họ nhà cua
 Nghiến răng gọi mưa
 Đúng là cụ cóc
 Thích ngồi cắn chắt
 Chuột nhắt, chuột đàn
 Đan lưới dọc ngang
 Anh em nhà nhện
 Gọi kiểu tóc bện
 Vợ chồng nhà sam …
- 
        
        
        
    
    Vì mây nên núi lên trờiVì mây nên núi lên trời 
 Vì cơn gió thổi, hoa cười với trăng
 Vì chuôm cho cá bén đăng
 Vì tình nên phải đi trăng về mờDị bản- Vì mây cho núi lên trời 
 Vì cơn gió thổi, hoa cười với trăng
 Vì sương cho núi bạc đầu
 Vì cơn gió mạnh cho rầu rĩ hoa
 Vì mây cho núi lên cao
 Mây còn mờ mịt, núi nhòa mờ xanh
 
- 
        
        
        
    
    Trên trời có ông sao Tua
- 
        
        
        
    
    Nu na nu nốngNu na nu nống, 
 Thằng cộng, các cạc,
 Chân vàng, chân bạc.
 Đá xỉa, đá xoi,
 Đá đầu con voi,
 Đá lên, đá xuống,
 Đá ruộng bồ câu,
 Đá râu ông già,
 Đá ra đường cái,
 Gặp gái đi đường.
 Có phường trống quân,
 Có chân thì rụt.Dị bản- Nu na nu nống, 
 Cái cống càng cạng,
 Đá rạng đôi bên,
 Đá lên đá xuống,
 Đá ruộng bồ câu,
 Đá đầu con voi,
 Đá xoi đá xỉa,
 Đá nửa cành xung,
 Đá ung trứng gà,
 Đá ra đường cái,
 Gặp gái giữa đường,
 Gặp phường trống quân,
 Có chân thì rụt.
 
- 
        
        
        
    
    Cùm nụm cùm nịuCùm nụm cùm nịu 
 Trời đánh tay tiên
 Đồng tiền chiếc đũa
 Hột lúa ba bông
 Con văn con võ
 Ăn trộm trứng gà
 Bù xa bù xít
 Con rắn con rít
 Phải ra tay nào
 Phải ra tay nầy
 Hú chuột…Dị bản- Tùm nụm, tùm nịu, 
 Tay tí, tay tiên
 Đồng tiền, chiếc đũa
 Hột lúa ba bông
 Ăn cắp trứng gà
 Bù xa, bù xít
 Con rít trên trời,
 Ai mời mày xuống?
 Bỏ ruộng ai coi?
 Bỏ voi ai giữ?
 Bỏ chữ ai đọc?
 Đánh trống nhà rông
 Tay nào có?
 Tay nào không?
 Hổng ông thì bà,
 Trái mít rụng!
- Cùm nụm cùm nịu 
 Trời đánh tay trên
 Đồng tiền chiếc đũa
 Hột lúa ba bông
 Ăn trộm trứng gà
 Bò la bò lết
 Con rắn con rết
 Thò ra tay nào
 Thò ra tay này
 Ta đánh cái bốp
 
- 
        
        
        
    
    Tuổi Tí con chuột cống xùTuổi Tí là con chuột xù 
 Thu gạo thu nếp nó bò xuống hang
 Tuổi Sửu con trâu kềnh càng
 Cày chưa đúng buổi nó mang cày về
 Tuổi Dần con cọp chỉn ghê
 Bắt người ăn thịt tha về non cao
 Tuổi Mẹo là con mèo ngao
 Hay quấu hay quào ăn vụng thành tinh
 Tuổi Thìn, rồng ở thiên đình
 Đằng vân giá vũ ẩn mình trên mây …
Chú thích
- 
    - Thanh Khiết
- Tên một làng nay thuộc xã Tư Nguyên, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
 
- 
    - Sung Tích
- Tên một làng nay thuộc xã Sơn Hội, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
 
- 
    
- Câu ca dao này có sự chơi chữ. Dân Thanh Khiết ngày xưa thường làm nghề trồng các loại rau cải và làm giá (mầm đậu). Dân Sung Tích xưa làm nghề trồng dâu nuôi tằm, lấy tơ dệt lụa. "Cải giá" vừa có nghĩa là cây cải, rau giá, vừa có nghĩa là "lấy chồng lần nữa." "Kén dâu" vừa có nghĩa là kén tằm, cây dâu tằm, vừa có nghĩa là kén chọn cô dâu.
 
- 
    - Giả chước
- Đánh lạc hướng người khác bằng cách làm điều gì đó để khỏi bị chú ý hoặc nghi ngờ.
 
- 
    - Mảng
- Mải, mê mải (từ cũ).
 
- 
    - Căn duyên
- Theo giáo lý nhà Phật, hai người gặp nhau được là nhờ duyên nợ từ kiếp trước, hay còn gọi là nhân duyên. Lấy bản tính làm nhân duyên, gọi là căn duyên. Còn lấy ngoại cảnh làm duyên gọi là trần duyên. Cũng có sách gọi căn duyên là tâm duyên.
 
- 
    - Bánh giầy
- Cũng viết là bánh dầy hoặc bánh dày, một loại bánh truyền thống của dân tộc ta. Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn. Bánh có thể được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày giỗ tổ), nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Theo truyền thuyết, Lang Liêu, hoàng tử đời Hùng Vương thứ 6 là người nghĩ ra bánh chưng và bánh giầy.
Cùng với bánh chưng, bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu trắng, hình tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt. Có ý kiến lại cho rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. 
 
- 
    - Chuốt ngót
- Nói tốt, nói hay nhằm giới thiệu, quảng cáo (từ cũ).
"Đến việc nói, thì không nói có, có nói không, muốn hại ai thì đặt đủ điều để vu cáo, muốn bưng bợ ai thì hòn chì cũng chuốt ngót cho thành bạc trắng đồng đen. Cụ Nguyễn Công Trứ có câu: Lúc ghét dệt thêu ngay hóa vẹo, 
 Khi thương tô điểm méo nên tròn.Thật là dễ sợ!" 
 (Những tấm gương xưa - Quách Tấn)
 
- 
    - Đèn lưu ly
- Một loại đèn của Phật giáo, thường thấy trong các đình chùa, có dạng một đóa hoa sen.
 
- 
    - Tim
- Bấc đèn. Gọi vậy là bắt nguồn từ tên Hán Việt hỏa đăng tâm (tim của lửa đèn). Tim hay bấc đèn dầu là một sợi dây thường làm bằng bông, một đầu nhúng vào dầu, đầu kia nhô một chút khỏi bầu đèn. Để chỉnh độ sáng tối của đèn, người ta điều chỉnh độ dài ngắn của phần tim đèn nhô lên này bằng một hệ thống nút vặn.
 
- 
    - Răng
- Sao (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Căn số
- Chỉ số mệnh của một người theo luật nhân quả của đạo Phật. Theo đạo Phật, số phận của một người là kết quả của những hành động trong đời sống hiện tại và cả trong những kiếp trước.
 
- 
    - Mần ri
- Như thế này (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Tước
- Chim sẻ (từ Hán Việt).
 
- 
    - Cưởi
- Sương (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Sao Kim
- Hành tinh thứ hai trong hệ Mặt Trời, khi xuất hiện lúc chiều tối thì được gọi là sao Hôm, khi xuất hiện lúc sáng sớm thì được gọi là sao Mai. Người xưa lầm tưởng sao Hôm và sao Mai là hai ngôi sao riêng biệt. Trong thi ca, sao Hôm là hoán dụ của hoàng hôn, còn sao Mai là hoán dụ của bình minh.
 
- 
    - Rau răm
- Một loại cây nhỏ, lá có vị cay nồng, được trồng làm gia vị hoặc để ăn kèm.
 
- 
    - Mận
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, hoa trắng, nở vào mùa xuân. Quả mận vị chua ngọt, có loại vỏ màu tím, xanh nhạt, vàng, hay đỏ. Các bộ phận của cây mận như quả, rễ, nhựa, lá, nhân hạt... đều có tác dụng chữa bệnh.
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. 
 
- 
    - Nghĩa giao hòa
- Nghĩa vợ chồng (dùng trong ca dao dân ca).
 
- 
    - Chũm
- Phần đầu và đuôi của quả cau.
 
- 
    - Xanh
- Dụng cụ để nấu, làm bằng đồng, có hai quai, giống cái chảo lớn nhưng đáy bằng chứ không cong.
 
- 
    - Bèo tấm
- Loại bèo có lá nhỏ, hay phát triển thành thảm bèo trên các ao hồ ở làng quê Việt Nam, nhất là miền Bắc.
 
- 
    - Bèo ong
- Còn gọi là bèo tai chuột, lá mọc thành cụm dày, cuộn lại dọc theo sống lá như tổ ong. Nhân dân ta thường băm bèo ong cho lợn ăn.
 
- 
    - Công trình
- Công phu khó nhọc.
 
- 
    - Đay
- Nói đi nói lại cho bõ tức, với giọng điệu làm người ta khó chịu.
 
- 
    - Võng Thị
- Còn gọi là làng Võng, xưa ở huyện Quảng Đức, thuộc kinh thành Thăng Long, nay thuộc địa phận phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội.
 
- 
    - Nhau
- Nhau thai. Có nơi đọc là rau.
 
- 
    - Khoai môn
- Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo.
 
- 
    - Dâm bụt
- Phương ngữ Nam bộ gọi là bông bụp, bông lồng đèn, có nơi gọi là râm bụt, là một loại cây bụi thường được trồng ở bờ rào trên khắp các làng quê. Hoa dâm bụt lớn, màu đỏ sậm, nhưng không có mùi hương.
 
- 
    - Kẻ Dặm
- Tên chữ là Văn Tập, một làng nay thuộc xã Minh Châu, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, nằm dưới chân lèn Hai Vai. Người dân nơi đây sống bằng nghề đục đá, nấu vôi.
 
- 
    - Rành rành
- Một số nơi gọi là cây rang hoặc cây chổi trện, một loại cây mọc tự nhiên ở các vùng đồi núi. Rành rành được khai thác để làm chổi, gọi là chổi rành rành, chổi rang, chổi xể, hoặc chổi trện.
 
- 
    - Khố
- Một trong những loại trang phục cổ xưa nhất của nhân loại, gồm một tấm vải dài, khổ hẹp dùng để để bọc và che vùng hạ bộ bằng cách quấn tựa vào vòng thắt lưng. Trước đây nhiều vùng sử dụng, hiện tại khố vẫn còn được sử dụng hạn chế như ở vùng cao, vùng xa nơi còn lạc hậu, ngoài ra một số nước giữ gìn nó như bản sắc văn hóa khi có hội hè. Đóng khố đuôi lươn là kiểu mặc khố có thừa một đoạn buôn thõng ở phía sau cho tới khoeo chân, như cái đuôi con lươn, còn không có thì gọi là khố cộc.
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Cắn chắt
- Cắn ăn hạt lúa (cho vui miệng hoặc đỡ đói).
Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt 
 cười lia dăm hạt cốm
 giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân
 (Người không về - Hoàng Cầm)
 
- 
    - Sam
- Một sinh vật biển thuộc bộ giáp xác. Sam thường đi thành cặp ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái, gọi là đôi sam. Dân gian ta có thành ngữ "thương như sam" hoặc "dính như sam."
 
- 
    - Sao chổi
- Còn có tên gọi dân gian là sao cờ hoặc sao tua, một thiên thể gần giống một tiểu hành tinh nhưng cấu tạo chủ yếu không phải từ đất đá, mà từ băng. Chúng bay quanh Mặt Trời theo quỹ đạo rất dẹt, khi đi vào vòng trong Hệ Mặt trời thì được mặt trời chiếu sáng, từ đó mới sinh ra các ánh sáng rực rỡ như ta thấy khi quan sát từ Trái Đất.
Ngày xưa, theo quan niệm dân gian, sao chổi xuất hiện thường được cho là điềm loạn lạc. 
 
- 
    - Hạ giới
- Nhân gian, theo quan niệm dân gian Trung Hoa và các nước đồng văn, là nơi người bình thường sinh hoạt, trái với thượng giới là nơi thần tiên ở.
 
- 
    
- Đây là vua Tự Đức.
 
- 
    - Thất đức thất uy
- Mất đạo đức và uy quyền.
 
- 
    - Chim ri
- Một loài chim như chim sẻ, ăn thóc gạo và các loại hạt. Văn học thường dùng các thành ngữ "khóc như ri," "nổi như ri..."
 
- 
    - Kinh Bắc
- Một địa danh thuộc miền Bắc trước đây, hiện nay bao gồm toàn bộ ranh giới hai tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là Hà Nội (toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng). Là nơi có ba kinh đô cổ của Việt Nam gồm: Cổ Loa, Mê Linh và Long Biên. Kinh Bắc cùng với xứ Đoài là hai vùng văn hóa cổ nhất so với xứ Sơn Nam và xứ Đông, với nhiều di tích lịch sử có giá trị như Cổ Loa, đền Sóc, chùa Phật Tích, đền thờ Hai Bà Trưng...
Quê hương Kinh Bắc có dân ca quan họ và lễ hội Gióng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. 
 
- 
    - Xứ Đông
- Tên một địa danh cổ, một trấn ở phía Đông của Kinh thành Thăng Long xưa. Xứ Đông bao gồm một vùng văn hóa rộng lớn ở Đông Bắc đồng bằng sông Hồng, gồm các tỉnh Hải Dương (nằm ở trung tâm), Hải Phòng, Quảng Ninh và một phần đất thuộc hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình.
 
- 
    - Đàng Ngoài
- Còn có tên là Bắc Hà hoặc Đường Ngoài (ít gặp), tên gọi bắt nguồn từ thời Trịnh-Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18, chỉ phần lãnh thổ nước ta từ sông Gianh (tỉnh Quảng Bình) trở ra Bắc, được kiểm soát bởi vua Lê - chúa Trịnh. Đến năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra Bắc diệt Trịnh, chính thức chấm dứt chính thể Đàng Ngoài.
 
- 
    - Hát trống quân
- Hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra Bắc. Hát trống quân ở mỗi địa phương có khác nhau về làn điệu, lối hát và thời điểm hát, nhưng đều mang một số điểm chung như: những người tham gia chia thành hai bên "hát xướng" và "hát đáp", lời ca thường mang tính ứng đối, sử dụng trống dẫn nhịp gọi là "trống thùng", giữa những câu đối đáp có đoạn ngừng gọi là "lưu không". 
Hát trống quân thường được tổ chức vào rằm tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những ngày hội. Trong những ngày mùa, vào chiều tối, những người thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức hát với nhau hoặc với trai gái trong làng. Xem phóng sự Hát trống quân - Nét dân ca của đồng bằng Bắc Bộ. 
 
- 
    - Nu na nu nống
- Tên của một bài đồng dao cũng là tên của một trò chơi thiếu nhi phổ biến. Ba, bốn em nhỏ ngồi tụm lại, duỗi thẳng hai chân ra. Các em đọc to bài đồng dao trong khi một em lấy tay đếm từng chân một theo từng chữ trong bài đồng dao. Tiếng "rụt" cuối bài rơi vào chân nào, chân đó phải tức thì rụt lại.
 
- 
    - Cùm nụm
- Tên một trò chơi dân gian gồm nhiều trẻ, mỗi đứa hai tay nắm đũa, chồng lên nhiều lớp, sau đó đọc bài vè trên và được nào đọc trúng câu cuối thì được ra trước và chạy đi tìm chỗ trốn, lần lượt như thế cho đến đứa cuối cùng thì phải chạy đi lục lọi, tìm bắt cho ra mấy đứa kia.
 
- 
    - Chỉn
- Vốn là, thật là. Theo học giả An Chi, từ này bắt nguồn từ chữ Hán chân 真 (vốn là, nguyên là).
 
- 
    - Thiên cung
- Cung điện trên trời, cũng gọi là thiên đình. Theo thần thoại Trung Quốc và một số nước Đông Á (trong đó có Việt Nam), trên trời có cung điện cho Ngọc Hoàng và các thần thánh ăn ở, vui chơi và trông coi mọi việc trong vũ trụ.
 
- 
    - Đằng vân giá vũ
- Cưỡi mưa, đè mây (chữ Hán). Thường dùng để chỉ sự đi lại của thần tiên.
 






















