Cuối thu trồng cải trồng cần
Ăn ròng sáu tháng cuối xuân thì tàn
Bây giờ rau muống đã lan
Lại ăn cho đến thu tàn thì thôi
Mùa nào thức ấy lần hồi
Lọ là đem của cho người ta ăn.
Tìm kiếm "Chuối"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Chơi dao có ngày đứt tayChơi dao có ngày đứt tay 
- 
        
        
        
    
    Chơi xuân quá lứa đi rồiChơi xuân quá lứa đi rồi 
 Vắt tay mà ngẫm cõi đời mà lo
 Trông gương luống những thẹn thò
 Một mai tóc bạc lưng gù mới dơ
 Thương thay xuân chả đợi chờ
 Tiếc thay xuân những hững hờ với xuân
- 
        
        
        
    
    Chơi với chó, chó liếm mặtChơi với chó, chó liếm mặt 
- 
        
        
        
    
    Chuồn chuồn đánh giặcChuồn chuồn đánh giặc 
 Voi đậu bờ rào
 Rộng nhất thì ao
 Hẹp hòi thì biển
 Đẹp nhất thì khỉ
 Xấu xa thì tiên
 Bong bóng thì chìm
 Gỗ lim thì nổi
 Đào ao bằng chổi
 Quét nhà bằng mai
 Tròn thì bồ đài
 Méo thì miệng thúng …
- 
        
        
        
    
    Cười hở mười cái răngCười hở mười cái răng 
- 
        
        
        
    
    Chửi cha không bằng pha tiếngChửi cha không bằng pha tiếng Dị bản- Chém cha không bằng pha tiếng 
 
- 
        
        
        
    
    Chửi chó mắng mèoChửi chó mắng mèo 
- 
        
        
        
    
    Chơi với quan viên Kẻ Vẽ, không còn cái bát mẻ mà ăn
- 
        
        
        
    
    Cưới nàng đôi nón Gò Găng
- 
        
        
        
    
    Chổi tiên quét sạch chùa vàngChổi tiên quét sạch chùa vàng 
 Sửa sang Phật lại để nàng đi tu
- 
        
        
        
    
    Chơi trăng không sợ phép ông trờiChơi trăng không sợ phép ông trời 
 Đốt chùa không tội bằng cướp duyên người lẻ đôi
- 
        
        
        
    
    Chơi với quan Thanh Lâm, như giáo đâm vào ruột
- 
        
        
        
    
    Chơi trăng không biết trăng tròn
- 
        
        
        
    
    Cười cười nói nói ngọt ngào
- 
        
        
        
    
    Chuồng gà hướng đông, cái lông chẳng cònChuồng gà hướng đông, cái lông chẳng còn 
- 
        
        
        
    
    Cười như nắc nẻ
- 
        
        
        
    
    Chơi chi những kẻ có chồngChơi chi những kẻ có chồng 
 Tát nước ruộng cạn tốn công cày bừa
 Lênh đênh bè gỗ, bè dừa
 Quần nâu áo vải đâu vừa thì chơi
- 
        
        
        
    
    Cười người lên núi mò cua
- 
        
        
        
    
    Chuông chùa lóc cóc leng keng
Chú thích
- 
    - Mai
- Còn gọi cái thêu, thuổng hay xuổng, một dụng cụ gồm một lưỡi sắt nặng, to và phẳng, tra vào cán dài, để đào, xắn đất.
 
- 
    - Bồ đài
- Đồ dùng để múc nước, làm bằng mo cau gập và nẹp lại.
 
- 
    - Thúng
- Dụng cụ để chứa, đựng, hay đong các loại nông, thủy, hải sản. Thúng thường được đan bằng tre, hình chén, miệng tròn hoặc hơi vuông, lòng sâu, có khi sâu tới nửa mét, đường kính khá lớn, khoảng từ 45 cm (thúng con) đến 55 cm (thúng cái). Vành miệng thúng có dây mây nức vành.
 
- 
    - Quan viên
- Chỉ chung những người có địa vị hoặc chức vụ trong làng xã.
 
- 
    - Đông Ngạc
- Tên nôm là làng Vẽ hay kẻ Vẽ, một làng cổ ở nằm sát chân cầu Thăng Long, thuộc huyện Từ Liêm, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km. Đông Ngạc được coi là một trong những làng cổ nhất của Hà Nội. Làng còn được gọi là "làng tiến sĩ" do có rất nhiều vị tiến sĩ Hán học và Tây học, đồng thời nổi tiếng với nghề truyền thống là làm nem.
 
- 
    - Vải lĩnh
- Còn gọi là lãnh, loại vải dệt bằng tơ tằm nõn, một mặt bóng mịn, một mặt mờ. Lĩnh được cho là quý hơn lụa, có quy trình sản xuất rất cầu kì. Vải lãnh thường có màu đen, trơn bóng hoặc có hoa, gọi là lĩnh hoa chanh, thường dùng để may quần dài cho các nhà quyền quý. Lĩnh Bưởi ở vùng Kẻ Bưởi miền Bắc (gồm các làng An Thái, Bái Ân, Hồ Khẩu, Trích Sài) và lãnh Mỹ A ở miền Nam là hai loại vải lãnh nổi tiếng ở nước ta.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao 
 Lưng đeo dải yếm đào
 Quần lĩnh, áo the mới
 Tay cầm nón quai thao
 (Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp)
 
- 
    
- 
    - Trầu nguồn
- Loại trầu của đồng bào dân tộc trồng trên núi, có lá to, hương đậm.
 
- 
    - Thanh Lâm
- Tên gọi của một huyện đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam kể từ thời thuộc Minh (1407-1427), hiện nay là huyện Nam Sách và một phần thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
 
- 
    - Giòn
- Xinh đẹp, dễ coi (từ cổ).
 
- 
    - Nắc nẻ
- Tên gọi chung các loài bướm cỡ lớn, màu nâu, nhiều bụi phấn, thường bay về đêm, đập cánh phành phạch.
 
- 
    - Bụt
- Cách gọi dân gian của Phật, bắt nguồn từ cách phiên âm từ Buddha (bậc giác ngộ - Phật) trong tiếng Ấn Độ.
 
- 
    - Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
 
- 
    - Cầu tự
- Tập tục xin con của những cặp vợ chồng hiếm muộn, đến nay vẫn còn. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh: Khi nào vợ chồng ở với nhau lâu mà không có con thì người ta cầu tự. Cầu tự có nhiều cách: Người thì uống thuốc cho bổ khí huyết, người thì [...] nhờ thầy phong thủy dịch mả, người thì đi lễ chùa này miếu nọ để cầu con. (Việt Nam văn hóa sử cương).
 
- 
    - Sãi
- Người đàn ông làm nghề giữ chùa.
 
- 
    - Nam mô A Di Đà Phật
- Câu niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, một phép tu hành được sử dụng trong Phật giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông.
 







