Anh là con trai Nam Xang
Nước lớn ngang đàng vác đấu đi đong
Anh đong tỉnh Bắc tỉnh Đông
Trở về anh lại sang đong tỉnh Đoài
Tỉnh Bắc giá thóc mười hai
Tỉnh Đông mười tám, tỉnh Đoài hai mươi
Toàn bộ nội dung
-
-
Chuyến đò còn nhớ nhau thay
-
Hát bội làm tội người ta
-
Có oản anh tình phụ xôi
Có oản anh tình phụ xôi
Có cam phụ quýt, có người phụ ta
Có quán tình phụ cây đa
Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn
Có mực anh phụ tình son
Có kẻ đẹp giòn anh phụ nhân duyên
Có bạc anh tình phụ tiền
Có nhân ngãi mới anh quên em rồiDị bản
Có bạc em tình phụ tiền
Có nhân ngãi mới em quên anh rồi
Có oản em tình phụ xôi
Có cam phụ quýt, có người phụ ta
Có quán tình phụ bóng đa
Ba năm quán đổ, cây đa vẫn còn
-
Bạn nghèo thuở trước chớ quên
-
Mặt dạn mày dày
Mặt dạn mày dày
-
Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật
Sống mỗi người một nết,
Chết mỗi người một tật -
Ít xít ra nhiều
Dị bản
Có ít xít ra nhiều
-
Gần đất xa trời
Gần đất xa trời
-
Ăn cho, buôn so
-
Ði ngang thấy ngọn đèn chong
Ði ngang thấy ngọn đèn chong
Thấy em nho nhỏ muốn bồng mà ru -
Áo năng thay năng mới, người năng tới năng thương
Dị bản
Áo năng may năng mới,
Người năng tới năng thươngÁo năng may năng mới,
Người năng tới năng thường
-
Chị kia có quan tiền dài
-
Muốn lấy chồng mà chồng không lấy
Muốn lấy chồng mà chồng không lấy
Biết họ nhà chồng bán mấy mà mua
Mong cho thiên hạ được mùa
Đi gặt đi hái mà mua lấy chồng.Dị bản
Muốn lấy chồng mà chồng chẳng lấy
Biết giá chồng đáng mấy mà mua.
Mong cho thiên hạ được mùa
Đi gặt đi hái mà mua lấy chồng.
-
Tre già vì bởi nhện giăng
-
Trăng thanh trăng rọi ngoài nương
Trăng thanh trăng rọi ngoài nương
Đèn thanh đèn rọi tứ phương trong nhà -
Trăng thanh nhờ bởi trời trong
Trăng thanh nhờ bởi trời trong
Thương nhau từ chỗ mặn nồng mà thương
Xưa rày xa cách đôi đường
Chén thề gần cạn, khăn hường gần phai
Sầu riêng thức trắng đêm dài
Hai hàng nước mắt láng lai đêm trường
Nhớ khi đi đứng ngoài đường
Tay cầm tay dắt trao thương gởi sầu
Thẩn thơ thơ thẩn đêm thâu
Sương sa ướt đẫm mái đầu đôi ta
Ước sao chàng thiếp một nhà
Anh đàn em hát câu ca xuân tình
Đừng làm đôi ngả lênh đênh
Niềm vui không trọn chữ tình không xong
Xốn xang dao cắt vào lòng
Lời thề giữ vẹn, chữ đồng đừng quên -
Trăng thanh nguyệt rạng mái đình
Trăng thanh nguyệt rạng mái đình
Chén son chưa cạn sao tình đã quên?Dị bản
-
Trăng rằm, mười sáu trăng treo
Trăng rằm, mười sáu trăng treo
Vợ cưới chưa chắc, vợ theo chắc gì. -
Trăng rằm, mười sáu trăng lu
Chú thích
-
- Lý Nhân
- Một huyện thuộc tỉnh Hà Nam, có tên cũ là huyện Nam Xương, biến âm thành Nam Xang. Huyện nằm ở phía đông của tỉnh, bên bờ sông Hồng. Tên Nam Xương được nhắc đến trong tác phẩm nổi tiếng Người con gái Nam Xương, câu chuyện xảy ra từ thời Trần, lưu truyền trong dân gian và được Nguyễn Dư được chép lại vào cuối thế kỷ 16 trong tập Truyền kỳ mạn lục.
Lý Nhân là nơi giàu truyền thống văn hóa - lịch sử. Trống đồng Ngọc Lũ - chiếc trồng đồng còn nguyên vẹn và có giá trị nhất nước ta - được tìm thấy ở đây.
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Đấu
- Đồ dùng để đong thóc gạo ngày trước, bằng khoảng một lít hiện nay.
-
- Kinh Bắc
- Một địa danh thuộc miền Bắc trước đây, hiện nay bao gồm toàn bộ ranh giới hai tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là Hà Nội (toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng). Là nơi có ba kinh đô cổ của Việt Nam gồm: Cổ Loa, Mê Linh và Long Biên. Kinh Bắc cùng với xứ Đoài là hai vùng văn hóa cổ nhất so với xứ Sơn Nam và xứ Đông, với nhiều di tích lịch sử có giá trị như Cổ Loa, đền Sóc, chùa Phật Tích, đền thờ Hai Bà Trưng...
Quê hương Kinh Bắc có dân ca quan họ và lễ hội Gióng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
-
- Xứ Đông
- Tên một địa danh cổ, một trấn ở phía Đông của Kinh thành Thăng Long xưa. Xứ Đông bao gồm một vùng văn hóa rộng lớn ở Đông Bắc đồng bằng sông Hồng, gồm các tỉnh Hải Dương (nằm ở trung tâm), Hải Phòng, Quảng Ninh và một phần đất thuộc hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình.
-
- Xứ Đoài
- Tên gọi nôm na của xứ Sơn Tây, một xứ thừa tuyên (đơn vị hành chính) thời Hậu Lê, nằm về phía tây kinh thành Thăng Long.
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Hát bội
- Một loại hình văn nghệ dân gian cổ truyền phổ biến trước đây. Đây là một loại hình mang nặng tính ước lệ. Các diễn viên hát bộ phân biệt từ mặt mũi, râu tóc, áo quần để rõ kẻ trung nịnh, người sang hèn, ai thô lậu, thanh tú, ai minh chánh, gian tà. Sắc đỏ được dùng dặm mặt để biểu hiện vai trung thần; màu xám là nịnh thần; màu đen là kẻ chân thật; màu lục là hồn ma... Dàn nhạc dùng trong hát bội gồm có những nhạc cụ như: trống chiến, đồng la, kèn, đờn cò và có khi ống sáo. Nội dung các vở hát bội thường là các điển tích Trung Hoa.
Về tên gọi, "bộ" đây có nghĩa là diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn, nên gọi là "hát bộ", "diễn bộ", "ra bộ.. Gọi là “hát bội” là vì trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướng, lông công, lông trĩ… lên người. Còn "tuồng" là do chữ "Liên Trường" (kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn), do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng," "luôn tuồng..."
Xem vở hát bội Thần nữ dâng Ngũ Linh Kỳ.
-
- Oản
- Bánh làm bằng xôi nếp hoặc bột bánh khảo nén vào khuôn hình nón cụt để cúng.
-
- Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
-
- Giòn
- Xinh đẹp, dễ coi (từ cổ).
-
- Nhân ngãi
- Người thương, người tình (từ cổ). Cũng nói nhân ngãi, ngỡi nhân.
-
- Về ý nghĩa câu ca dao này, xin xem chú thích tao khang.
-
- Xít
- Gần sát (phương ngữ Quảng Nam).
-
- Ăn cho, buôn so
- Trong chuyện ăn uống thì có thể dễ dãi, nhưng trong chuyện buôn bán thì phải tính toán hơn thiệt kĩ càng.
-
- Năng
- Hay, thường, nhiều lần.
-
- Bị
- Đồ đựng, thường đan bằng cói hay tre, có quai xách.
-
- Duyên nợ
- Theo giáo lí nhân quả của nhà Phật, hai người gặp nhau được là nhờ duyên (nhân duyên), và nên nghĩa vợ chồng để trả nợ từ kiếp trước.
-
- Thuyền quyên
- Gốc từ chữ thiền quyên. Theo từ điển Thiều Chửu: Thiền quyên 嬋娟 tả cái dáng xinh đẹp đáng yêu, cho nên mới gọi con gái là thiền quyên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
(Truyện Kiều)
-
- Rày
- Nay, bây giờ (phương ngữ).
-
- Chữ đồng
- Từ cụm từ Hán Việt "đồng tâm đái," hoặc "dải đồng," chỉ sợi thắt lưng ngày xưa có hai dải lụa buộc lại với nhau. Văn chương cổ dùng từ "chữ đồng" hoặc "đạo đồng" để chỉ sự kết nguyền chung thủy của vợ chồng.
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
(Truyện Kiều)
-
- Dọi
- Chiếu, rọi.
-
- Ngãi
- Nghĩa, tình nghĩa (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Trăng lu
- Trăng mờ.
-
- Núi Vọng Phu
- Một ngọn núi thuộc huyện Vũ Xương thời Lê, đến thời Nguyễn đổi thành Đăng Xương, nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Tên gọi này bắt nguồn từ sự tích Hòn Vọng Phu.