Phải gần, lóng trước đã gần
Bây giờ có tưởng, mấy phần của cũng xa
Phải gần, lóng trước đã gần
Dị bản
Phải gần năm ngoái đã gần
Năm nay có tưởng mười phần cũng không
Phải gần năm ngoái đã gần
Năm nay có tưởng mười phần cũng không
Thương nhau không được ngỏ lời
Nước trôi thăm thẳm biết đời nào nên
Ai làm cho bướm lìa hoa
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng
Ai đi muôn dặm non sông
Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy?
Ăn chẳng có, khó đến mình
Ớ này cô mặc áo nâu
Đầu đội nón lá, đi đâu vội vàng?
Chữ dâu hiền con gái
Câu rể thảo con trai
Bậu dầu quên nghĩa trúc mai
Bớ bậu ơi
Qua kính thờ song nhạc, há nài công lao
Chữ dâu hiền con gái
Câu rể thảo con trai
Bậu dầu đôi lứa trúc mai
Bớ bậu ơi
Qua kính thờ song nhạc, dễ nài công lao
Thề cá trê chui cống
Chim quyên hút mật bông quỳ
Ba năm đợi được huống gì một năm
Nghe một bài hò mái nhì.
Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông
(Truyện Kiều)
Làm ơn há dễ mong người trả ơn (Lục Vân Tiên)
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là "sông Lau," tiếng người Chăm gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, vì chỗ con sông này đổ ra biển mọc rất nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653.
Tên xóm Bóng bắt nguồn từ một thói quen của làng cù lao xưa: Vào các dịp lễ vía cúng bà, tức thánh Mẫu Thiên Y A Nam, những "cô bóng, bà bóng" của làng lại tập trung múa hát.
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi?
(Truyện Kiều)