Chiều chiều én liệng diều bay
Bâng khuâng nhớ bạn bạn rày nhớ ai
Chiều chiều én liệng diều bay
Dị bản
Chiều chiều én lượn, cò bay
Khoan khoan hỏi bạn, bạn rày nhớ ai?
Chiều chiều én liệng diều bay
Bâng khuâng nhớ bạn bạn rày nhớ ai
Chiều chiều én lượn, cò bay
Khoan khoan hỏi bạn, bạn rày nhớ ai?
Cây cao bóng cả duyên mòn
Ước gì tôi được chồng con với người
Có anh như đũa có đôi
Vắng anh em vẫn ngậm ngùi nhớ thương
Khối tơ vương ruột tằm vấn vít
Bởi ông Tơ bà Nguyệt chưa se
Quan tướng nghe hiệu lệnh thì về
Chữ dục đã vậy chữ tùy làm sao
Muốn cho Đông liễu Tây đào
Cảnh sầu bể thảm lẽ nào thiếp sang
Phòng khi lỡ bước theo chàng
Lấy ai chầu chực thánh hoàng quốc gia
Phòng khi thiếp ở lại nhà
Một mình thân thiếp biết là làm sao?
Ăn thì chẳng nhớ tới ai,
Đến khi phải bỏng cứ tai mà sờ.
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.
Hong hóng như lồn chực cưới
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.
Già trái non hột
Quen mui biết mùi ăn mãi
Chàng ơi đưa gói thiếp mang
Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Ví dù tình có dở dang
Thì cho thiếp đón đò ngang thiếp về
Cơm Trì với cá rô chiên
Ăn đà no bụng còn ghiền muốn thêm
Kết tóc xe tơ có nghĩa là cưới nhau, thành vợ thành chồng.
闕 khuyết: Cái cổng hai từng. Làm hai cái đai ngoài cửa, trên làm cái lầu, ở giữa bỏ trống để làm lối đi gọi là "khuyết", cho nên gọi cửa to là "khuyết".
Nghe một bài hò mái nhì.
Đào chi yêu yêu,
Hữu phần kỳ thực.
Chi tử vu quy,
Nghi kỳ gia thất.
Tạ Quang Phát dịch:
Đào tơ mơn mởn tươi xinh,
Trái đà đơm đặc đầy cành khắp cây.
Theo chồng, nàng quả hôm nay.
Ấm êm hòa thuận nồng say gia đình.
Văn học cổ thường dùng những chữ như đào non, đào tơ, đào thơ, đào yêu... để chỉ người con gái đến tuổi lấy chồng.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường
Mà lòng phiếu mẫu, mấy vàng cho cân!
(Truyện Kiều)
Lưu ý: Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng.