Khen cho con nhỏ cả gan
Ghe không bánh lái dám chèo ngang giữa dòng
Khen cho con nhỏ cả gan
Dị bản
Khen cho con nhỏ cả gan
Ghe không bánh lái đâm ngang giữa dòng
Khen cho con nhỏ cả gan
Ghe không bánh lái đâm ngang giữa dòng
Đèn treo cột đáy, nước chảy đèn rung
Anh thương em thảm thiết vô cùng
Biết cha với mẹ bằng lòng hay không?
Đèn treo cột đáy, nước chảy đèn rung
Thương nhau xin chớ ngại ngùng
Sông sâu cũng lội rậm rừng cũng băng
Đèn treo cột đáy nước chảy ngọn đèn xoay
Em ơi dĩa nghiêng múc nước sao đầy
Lòng anh thương người nghĩa, cha mẹ rầy anh cũng thương.
Những lời mình nói với ta
Sông sâu hóa cạn, đường xa hóa gần
Ai ngờ ra dạ lần khân
Sông cạn lại thẳm, đường gần lại xa.
Em về em lại ra ngay
Chàng đừng tưởng gió trông mây mà phiền
Lấy chồng trước chẳng kén đôi
Từ ngày mắc phải, chẳng nguôi trong lòng
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.
Lỗ tiền chôn không bằng lồn con heo nái
Một hũ vàng chôn không bàng cái lồn heo nái
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.
Có mặt thì mắng, vắng mặt thì thương
Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn
Ý ai thì mặc ý ai
Đôi ta vẫn cứ canh khoai đầy nồi
Ý ai thì mặc ý ai
Ý tôi tôi muốn canh khoai đầy nồi
Hay là thuở trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.
Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
(Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà)
Chày sương chưa nện cầu Lam,
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng ?
(Truyện Kiều)
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là "sông Lau," tiếng người Chăm gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, vì chỗ con sông này đổ ra biển mọc rất nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653.