Đom ăn ra, tim la ăn vào
Dị bản
Đóm cháy ăn ra, tim la ăn vào
Đóm cháy ăn ra, tim la ăn vào
Ở nhà nồng nực lắm thay
Ra đi bán quạt, đụng ngày gió xuân
Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày
Gái đừng hay tới nhà trai,
Về sau hai vú bằng hai sọ dừa
Hùm chết để da, người ta chết để tiếng
Báo chết để da, người ta chết để tiếng
Mẹ với cha thật là khó kiếm
Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi!
Trâu dê lúc chết tế ruồi
Sao bằng lúc sống ngọt bùi là hơn.
Mất mẹ cha thật là khó kiếm
Đạo vợ chồng không hiếm chi nơi
Mất mẹ mất của anh đà khó kiếm
Mất vợ mất chồng dễ kiếm như chơi
Ra đường trông thấy tơ người
Về nhà trông thấy chỉ tôi tôi buồn.
Tối ăn khoai đi ngủ,
Sáng ăn củ đi làm
Tối ăn khoai đi ngủ,
Sáng ăn củ đi làm,
Trưa về ăn khoai lang uống nước
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ nồi cơm nguội, nhớ siêu nước chè
Nhớ hồi lên ngựa xuống xe
Nhớ bát nước chè, nhớ tộ đường non
Cá mòi, cá nục y con
Thịt heo y khúc lòng còn ước mơ
Nhớ khi rau muống bò bờ
Nhớ khi con nhện giăng tơ mới vào
Nhớ lê, nhớ lựu, nhớ đào
Đêm nằm tơ tưởng, chiêm bao mơ màng
Trông đò chẳng thấy đò sang
Cầm giằng quên gặt, nhớ đến nghĩa nàng, nàng ơi!
Ăn cơm mới nói chuyện cũ
Anh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi
Nên đến già thơ anh còn đậm đà thấm thía.
(Đêm ngủ ở Tuy Phước - Xuân Diệu)
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
(Truyện Kiều)
Đường non là nước đường nấu chưa tới "độ." Thợ lò múc một ít đường, đổ vào bẹ chuối và nghiêng cho đường tráng đều bẹ chuối là được. Khi đường non nguội thì sánh lại và có màu vàng, dẻo, vị ngọt thanh, rất thơm ngon.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Truyện Kiều)
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.