Nghìn thu gặp hội thái bình,
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long.
Phố ngoài bao bọc thành trong,
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng.
Ba mươi sáu mặt phố phường,
Hàng Giầy, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào.
Người đài các, kẻ thanh tao,
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai.
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài,
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên,
Trên đồn cờ kéo, dưới thuyền buồm giăng.
Phong quang lịch sự đâu bằng,
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe. …
Tìm kiếm "cánh gà"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Tháng Giêng xuân tuyết mau mưaTháng giêng xuân tuyết mau mưa 
 Nhớ chàng những lúc sớm trưa vui cười
 Tháng hai hoa đã nở rồi
 Nhớ chàng em phải đứng ngồi thở than
 Tháng ba nắng lửa mưa dầu
 Nhớ chàng em những âu sầu chả tươi
 Tháng tư sấm giục mưa rơi
 Nhớ chàng thơ thẩn ra chơi vườn cà
 Tháng năm gặt hái rồi rà
 Nhớ chàng như thể nhớ hoa trên cành …
- 
        
        
        
    
    Em thương nhớ ai ngơ ngẩn bên đầu cầuEm thương nhớ ai ngơ ngẩn bên đầu cầu 
 Lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi
 Cái sập đá hoa bỏ vắng em không ngồi
 Vườn hoa bỏ vắng mặc người quay tơ
 Em thương nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
 Đêm quên giấc ngủ ngày mơ trận cười
 Bấy lâu nay gần bến, xa vờiDị bản
- 
        
        
        
    
    Bác mẹ em vội tham vàngBác mẹ em vội tham vàng 
 Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con
 Trước thời thẹn với nước non
 Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày
 Khi vui có bác mẹ thầy
 Cơn sầu em chịu đắng cay một mình
 Mang thư ra dán cột đình
 Kẻ xuôi người ngược thấu tình em chăng?
 Phong ba nổi giữa đất bằng
 Một dây một buộc ai giằng cho ra
 Thiết gì một cảnh vườn hoa
 Mà đem đày đọa thân ta thế này
 Biết chăng hỡi bác mẹ thầy
 Ngỡ rằng gả bán hóa đày thân con?
- 
        
        
        
    
    Con gà kia muốn đá, cực vì chân kia không cựa
- 
        
        
        
    
    Con cò bay lả bay laCon cò bay lả bay la 
 Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng
 Suốt mình trắng nõn như bông
 Gió xuân thỉnh thoảng bợp lông trên đầu
 Hỏi cò vội vã đi đâu
 Xung quanh mặt nước một màu bao la
 Cò tôi bay lả bay la
 Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng
 Cha sinh mẹ đẻ tay không
 Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi …
- 
        
        
        
    
    Buổi tháng giêng tháng hai anh còn ham Tam, Túc, Yêu, LượngBuổi tháng giêng tháng hai anh còn ham Tam, Túc, Yêu, Lượng 
 Bước qua tháng chín tháng mười thì anh còn Mã, Tượng, Pháo, Xe
 Em nói với anh, anh chẳng thèm nghe
 Để chừ tay em ôm nón gạo, tay mót nạm củi nè, thảm chưa?Dị bản- Đêm năm canh anh mê Tam, Túc, Yêu, Lượng 
 Ngày sáu khắc anh theo Tướng, Sĩ, Tượng với Pháo, Xe
 Cơ chi thiếp nói chàng nghe
 Đến nỗi mô nay chừ chừ, tay bưng nón gạo, tay xách bó củi nè, ngó đã thảm chưa?
 
- 
        
        
        
    
    Ai ơi phải nghĩ trước sauAi ơi phải nghĩ trước sau 
 Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi
 Làm thì xem chẳng ra gì
 Làm tất làm tả, nói thì điếc tai
 Đi ngủ thì hết canh hai
 Thức khuya dậy sớm, mình ai dãi dầu
 Sớm ngày đi cắt cỏ trâu
 Trưa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy
 Hết mẹ rồi lại đến thầy
 Gánh cỏ có đầy cũng nói rằng vơi
 Nói thì nói thật là dai
 Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều
 Phận em là gái nhà nghèo
 Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng
 Nói ra đau đớn trong lòng
 Chịu khổ chịu nhục suốt trong một đời
- 
        
        
        
    
    Cô Thỉ cô ThiCô Thỉ cô Thi 
 Cô đang đương thì, cô kẹo với ai ?
 Cô Tú kẽo kẹt cô cai
 Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông
 Mâm cốm kẹo với mâm hồng
 Bát bịt, mâm đồng kẽo kẹt một nơi
 Mâm thịt kẹo với mâm xôi
 Thịt bùi xôi dẻo kẹo nơi bà già
 Cùi dừa kẹo với bánh đa
 Cái đĩa thịt gà kẹo với lá chanh
 Nồi cơm kẹo với nồi canh
 Quả bí trên cành kẹo với tôm he
 Bánh rán kẹo với nước chè
 Cô kia cò kè kẹo với ai đây ?
 Bà cốt kẹo với ông thầy
 Con chim loan phượng kẹo cây ngô đồng
- 
        
        
        
    
    Tay cầm khẩu mía tiện tư
- 
        
        
        
    
    Con cá lý ngư sầu tư biếng lội
- 
        
        
        
    
    Con tôi buồn ngủ buồn nghêCon tôi buồn ngủ buồn nghê 
 Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
 Nhà còn có một quả cà
 Làm sao đủ miếng cơm và cho con
 Con tôi khóc héo, khóc hon
 Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa
 Con thèm phẩm oản trên chùa
 Con thèm chuối ngự tiến vua của làng
 Con thèm gạo cốm làng Ngang
 Con thèm ăn quả dưa gang làng Quài
 Con thèm cá mát canh khoai
 Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng
 Con thèm đuôi cá vây bông
 Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao
- 
        
        
        
    
    Chén son để cạnh mạn thuyềnChén son để cạnh mạn thuyền 
 Chén son chưa cạn, lời nguyền chưa phai
 Em thương nhớ ai
 Nhớ ai ra đứng đầu cầu?
 Lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi
 Cái sập đá huê bỏ vắng không ai ngồi
 Buồng hương bỏ vắng, mướn người quay tơ
 Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
 Đêm khuya thức ngủ, ngày thưa tiếng cười? …
- 
        
        
        
    
    Đêm qua lốp đốp mưa ràoĐêm qua lốp đốp mưa rào 
 Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
 Đôi bên bác mẹ thì già
 Lấy anh hay chữ để mà cậy trông
 Mùa hè cho chí mùa đông
 Mùa nào áo ấy cho chồng đi thi
 Hết gạo em lại gánh đi
 Hỏi thăm chàng học trọ thì nơi nao
 Hỏi thăm phải ngõ mà vào
 Vai đặt gánh gạo, miệng chào: Kìa anh …
- 
        
        
        
    
    Vè nói láoTiếng đồn quả thiệt chẳng sai 
 Có người nói láo không ai dám bì
 Lội ngang qua biển một khi
 Thấy tàu đương chạy tôi ghì ngừng như không
 Lên rừng tôi vác đá hàn sông
 Gặp cọp tôi bồng về để nuôi chơi
 Nhà tôi có trồng một bụi cải trời
 Lá bằng cái sịa kinh thời tôi quá kinh
 Dưa gang của tôi cái hột bằng cái chình
 Sức tôi một mình ăn hết nồi ba
 Tôi trồng chơi có một dây khổ qua
 Nó ra một trái tôi xách mà năm ky …
- 
        
        
        
    
    Hoa từ bi dãi nắng dầm sươngHoa từ bi dãi nắng dầm sương 
 Hoa cam hoa quýt anh thương hoa nào
 Anh thương hoa mận hoa đào
 Còn bên hoa cúc lọt vào tay ai
 Đào kia chưa thắm đã phai
 Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu
 Xin chàng đừng phụ hoa ngâu
 Tham vời phú quý đi cầu mẫu đơn
 Dù chàng trăm giận nghìn hờn
 Bông hoa dạ hợp đương cơn Tấn Tần …
- 
        
        
        
    
    Em là con gái nhà quêEm là con gái nhà quê 
 Ham bên tài sắc nhiều bề ái ân
 Chẳng ham tham phú phụ bần
 Duyên rằng duyên phải nợ nần nhau đây
 Chàng có sang, chàng phải chọn ngày
 Mối manh cho rõ xe dây xích thằng
 Cầm cân chàng nhấc cho bằng
 Một bên cối đá một đằng tiền cheo
 Hỏi chàng rằng có hay nghèo
 Lệ làng phải sửa bấy nhiêu mới từng …
- 
        
        
        
    
    Bạn hẹn với ta mồng bốn tháng giêng– Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng giêng 
 Trông hoài không thấy bạn hiền vãng lai
 Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng hai
 Tiết xuân con én đưa thoi đã rồi
 Tháng ba, tháng tư ta không thấy bạn thời thôi
 Chim kêu thỏ thẻ trước nơi sân hòe
 Tháng năm, tháng sáu ta chẳng thấy nhắn nhe
 Chim kêu nhỏ nhẻ, mùa hè sang thu
 Chim kêu, vượn hú, cu gù
 Cây khô lá rụng, mịt mù tang thương
 Tháng bảy, tháng tám, tháng chín mưa trường
 Đến khi ta nhắn gửi, hết lời ta lại qua
 Tháng mười, tháng mười một, nước chảy mưa sa
 Đương khi tiết lạnh bạn với ta xa vời
 Còn mình tháng chạp bạn ơi
 Niên tàn nguyệt tận, bạn phải tính cho rồi mưu chi?
 Về nhà ngửa bàn tay tính lại đính đi
 Tháng thời mười hai tháng, mùa y bốn mùa
 Chuỗi sầu ai khéo thêu thùa
 Đớn đau dạ ngọc, xót chua gan vàng! …
- 
        
        
        
    
    Bực mình lên tận thiên cungBực mình lên tận thiên cung 
 Bắt ông Nguyệt lão hỏi thăm vài lời
 Nỡ lòng trêu ghẹo chi tôi
 Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì
 Biết người biết mặt nhau chi
 Để đêm em tưởng ngày thì em mơ
 Bắc Ninh cho đến Phủ Từ
 Qua cầu sông Nhị ngẩn ngơ tìm người
 Tìm người chẳng biết mấy nơi
 Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây. …
- 
        
        
        
    
    Vè chồng chungChồng chung khó lắm ai ơi! 
 Ai bước chân vô đó,
 Không ăn ngồi được mô!
 Quyền bán với quyền mua
 Thời là em không có,
 Đâm gạo với xay ló,
 Thời là em đã có phần,
 Đập đất với khiêng phân,
 Đâm xay, rồi nấu nướng.
 …
 Gẫm như bọn người ở,
 Chỉ sáu tháng thời thôi,
 Cái thân em ở đời,
 Hỏi làm sao chịu được?
 Chồng sai đi múc nước,
 Vợ bảo lấy que tăm.
 Trải chiếu toan đi nằm,
 Đọi dì hai chưa rửa …
Chú thích
- 
    - Hoàng thành Thăng Long
- Gọi tắt là thành Hà Nội hoặc Hà thành, một công trình kiến trúc đồ sộ, được xây dựng qua nhiều triều đại phong kiến nước ta. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, tại thành Hà Nội đã xảy ra ít nhất hai trận đánh quan trọng: trận thành Hà Nội thứ nhất (20/11/1873) và trận thành Hà Nội thứ hai (25/4/1882). Chỉ huy thành trong hai trận này lần lượt là đô đốc Nguyễn Tri Phương và tổng đốc Hoàng Diệu.
 
- 
    
- Hoàng thành từ thời Lý mở ra 4 cửa: Diệu Đức (cửa Bắc), Đại Hưng (cửa Nam), Quảng Phúc (cửa Tây), Tường Phù (cửa Đông). Giám là khu tập trung các sở quan lại, trung tâm văn hóa, giáo dục (Quốc Tử Giám, Khâm Thiên Giám, Giảng Võ Đường...).
 
- 
    - Ba mươi sáu phố
- Một cách gọi của đô thị cổ Hà Nội, khu vực dân cư nằm về phía đông của hoàng thành Thăng Long, nơi tập trung nhiều hoạt động buôn bán. Khu vực này rộng hơn khu phố cổ Hà Nội ngày nay. 
"Ba mươi sáu" là một con số mang tính ước lệ, số phố thực tế nhiều hơn con số này, và thay đổi theo thời kì. 
 
- 
    - Hàng Giầy
- Một phố của Hà Nội xưa, nay vẫn mang tên là phố Hàng Giầy, thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phố Hàng Giầy xưa là nơi tập trung những người thợ đóng giầy dép gốc làng Chắm, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương lên Thăng Long làm ăn.
 
- 
    - Hàng Bạc
- Một con phố của Hà Nội xưa, nay vẫn mang tên là phố Hàng Bạc, thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Thời Lê, trường đúc bạc của triều đình đặt ở đây, đến thời Nguyễn mới dời vào Huế. Phố Hàng Bạc xưa là nơi tập trung nhiều cửa hiệu làm đồ kim hoàn, đúc vàng bạc và đổi tiền.
 
- 
    - Hàng Ngang
- Tên một phố cổ của Hà Nội. Vào thế kỉ 18 đoạn đầu phố giáp phố Hàng Đào gọi là phố Hàng Lam, chuyên bán đồ tơ lụa màu xanh lam; đến thế kỉ 19 có tên là phố Việt Đông do có nhiều người Trung Hoa gốc Quảng Đông sinh sống. Khu phố Hoa Kiều buôn bán sầm uất, giàu có, hai đầu phố làm hai cánh cổng để buổi tối đóng lại, đó có thể là một nguồn gốc của tên gọi Hàng Ngang.
 
- 
    - Hàng Đào
- Một con phố của Hà Nội xưa, nay thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, phía nam là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sát bờ hồ Hoàn Kiếm, đầu phía bắc giáp phố Hàng Ngang. Ở đây còn di tích của trường Đông Kinh Nghĩa Thục (nhà số 10). Tên phố có nguồn gốc từ mặt hàng vải nhuộm đỏ được bán nhiều ở phố.
 
- 
    - Đài các
- Từ chữ Hán đài 臺: lầu cao, và các 閣: tầng gác. Chỉ những chỗ cao sang, quyền quý.
 
- 
    - Hàng Tiện
- Một phố cổ của Hà Nội, nay là phố Tô Tịch, thuộc quận Hoàn Kiếm. Phố lập nên do những người thợ gốc ở làng tiện Nhị Khê (huyện Thường Tín, Hà Tây cũ) đến buôn bán và hành nghề. Thời đó thợ tiện dùng bàn tiện đạp hai chân làm ra các đồ thờ, các vật dụng hàng ngày như mâm, bát hay đồ chơi gỗ cho trẻ em bằng gỗ mít, xoan hoặc gỗ tạp…
 
- 
    - Hàng Gai
- Một con phố của Hà Nội xưa, nay vẫn mang tên là phố Hàng Gai, thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phố Hàng Gai thời Lê có nhiều cửa hàng bán các loại dây gai, dây đay, võng, thừng, nên dân gian còn gọi là phố Hàng Thừng. Sang thời Nguyễn, các sản phẩm này mai một dần, phố Hàng Gai trở thành khu in ấn và bán sách.
 
- 
    - Hàng Thêu
- Một phố cổ của Hà Nội, xưa chuyên bày bán các mặt hàng thêu thùa. Phố dài khoảng 40 mét, cùng với Hàng Tranh, Hàng Trống hợp thành phố Hàng Trống ngày nay, thuộc quận Hoàn Kiếm.
 
- 
    - Hàng Trống
- Một con phố của Hà Nội xưa, nay thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, đi từ cuối phố Hàng Gai đến giữa phố Lê Thái Tổ. Gọi là Hàng Trống do trước đây những người dân làm trống làng Liêu Thượng (nay thuộc huyện Yên Mỹ, Hưng Yên) tới đây cư trú và buôn bán. Ngoài ra còn có nghề làm lọng của dân làng Đào Xá (Thường Tín, Hà Tây cũ), nghề vẽ tranh của dân làng Tự Tháp.
 
- 
    - Hàng Bài
- Một phố nằm trong khu phố cổ Hà Nội, được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc thôn Hậu Lâu, tổng Hữu Túc và hai thôn Vũ Thạch Hạ, Hàm Châu, tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương cũ. Xưa ở đầu phố có chợ Mới (chợ Hàng Bài) có bày bán nhiều cỗ bài lá nên phố mới có tên gọi Hàng Bài.
 
- 
    - Hàng Khay
- Còn gọi là phố Thợ Khảm, một phố của Hà Nội xưa, chạy dọc theo bờ nam hồ Hoàn Kiếm, tương ứng với phố Hàng Khay và đoạn cuối phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội hiện nay. Mặt hàng chính của phố Hàng Khay xưa là các sản phẩm gỗ khảm xà cừ như khay, mâm, sập, gụ, tủ, bàn.
 
- 
    - Tràng Tiền
- Tên một khu phố của Thăng Long-Hà Nội, nằm theo hướng Đông - Tây, kéo dài từ đầu hồ Gươm, chỗ phố Hàng Khay, cho tới nhà hát Lớn. Có ý kiến cho rằng phố có tên gọi như vậy là vì vào khoảng năm 1808, tại đây là nơi đúc tiền được nhà Nguyễn lập ra, tên gọi Nôm là Tràng Tiền (xem Quan xưởng Tràng Tiền). Dưới thời Pháp thuộc, phố có tên gọi là Rue (phố) Paul Bert, đặt theo tên một nhà khoa học của Pháp. Từ xưa đến nay, đây luôn là một trong những khu phố nhộn nhịp nhất Hà Thành.
 
- 
    - Mưa dầu
- Mưa ít quá, làm cho nóng thêm.
 
- 
    - Rồi rà
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Rồi rà, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Tàu
- Cách nhân dân ta gọi nước Trung Quốc hay người Trung Quốc (người Hoa), thường có ý khinh miệt. Theo học giả An Chi, chữ này có gốc từ tào 曹 (quan lại). Bác sĩ Trần Ngọc Ninh giảng là do chữ Tào là họ cuả Ngụy Tào Tháo. Lại có tên Ba Tàu, đến nay vẫn chưa thống nhất nguồn gốc của tên này.
 
- 
    - Sập
- Loại giường không có chân riêng, nhưng các mặt chung quanh đều có diềm thường được chạm trổ. Sập thường được làm bằng gỗ quý, thời xưa chỉ nhà giàu mới có.
 
- 
    - Buồng hương
- Do chữ Hán hương khuê (phòng thơm), chỉ phòng riêng của người phụ nữ.
 
- 
    - Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
 
- 
    - Khắc
- Đơn vị tính thời gian ban ngày thời xưa. Người xưa chia ban ngày ra thành sáu khắc (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo Lý Thái Thuận, khắc một là giờ Mão/Mạo (5h-7h), khắc hai là giờ Thìn (7h-9h), khắc ba là giờ Tị (9h-11h), khắc tư là giờ Ngọ (11h-13h), khắc năm là giờ Mùi (13-15h), khắc sáu là giờ Thân (15-17h). Theo đó, giờ Dậu (17-19h) không thuộc về ngày cũng như đêm. Xem thêm chú thích Canh.
 
- 
    - Bác mẹ
- Cha mẹ (từ cổ).
 
- 
    - Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
 
- 
    - Phong ba
- Gió (phong) và sóng (ba). Chỉ khó khăn thử thách.
 
- 
    - Cựa
- Mẩu sừng mọc ở sau chân gà trống hoặc một vài loài chim khác, dùng để tự vệ và tấn công. Trong trò đá gà, người ta thường mua cựa sắt tra vào chân gà hoặc chuốt cựa gà thật bén.
 
- 
    - Tang bồng
- Cung bằng gỗ dâu (tang) và tên bằng cỏ bồng. Theo Kinh Lễ, khi nhà vua sinh con trai, quan coi việc bắn sẽ lấy cung bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ bồng, bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, một phát xuống đất, ngụ ý rằng người làm trai chí ở bốn phương, tung hoành trời đất, giúp nước giúp đời. Chí làm trai vì thế gọi là chí tang bồng.
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Kết nguyền
- Nguyện kết nghĩa (vợ chồng) với nhau.
 
- 
    - Hốt me
- Còn có tên là đánh me hoặc đánh lú, một trò cờ bạc ngày trước, ban đầu chơi bằng hạt me, về sau thay bằng nút áo. Người ta dồn hạt me thành đống khoảng vài trăm hạt. Chiếu chơi me là vải bố dày phủ lên lớp sơn trắng, trên vạch hai đường chéo đen thành một dấu nhân ( x ) chia mặt vải thành bốn ô là Tam, Túc, Yêu, Lượng, lần lượt tương ứng với 1, 2, 3, và 4 hạt. Trước khi cược tiền, chủ cái dùng một cái que gạt bằng tre gạt từ đống hạt me ra phía trước một số lượng hạt ngẫu nhiên. Khi các con bạc cược tiền vào ô mình chọn xong, chủ cái dùng que gạt để đếm hạt me. Cứ mỗi lần gạt 4 hạt rồi lùa vào trong cho đến lượt cuối cùng chỉ còn lại 4 hạt trở xuống. Nếu thừa 1 hạt là Tam, 2 hột là Túc, 3 hạt là Yêu, 4 hạt là Lượng, rồi căn cứ vào đó mà chung tiền.
 
- 
    - Chừ
- Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Nạm
- Nắm, nhúm (nạm tóc, nạm gạo...).
 
- 
    - Thầy
- Cha, bố (phương ngữ một số địa phương Bắc và Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Đương thì
- Đang ở thời kì tuổi trẻ, đầy sức sống (thường nói về con gái).
 
- 
    - Cai
- Từ gọi tắt của cai vệ, chức danh chỉ huy một tốp lính dưới thời thực dân Pháp.
 
- 
    - Cốm
- Thức ăn được làm từ lúa nếp làm chín bằng cách rang và sàng sảy cho hết vỏ trấu, rất thịnh hành trong ẩm thực đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là tại Hà Nội. Ở miền Bắc, lúa nếp để làm cốm thường là nếp non, hạt lúa bấm ra sữa, tuy ở miền Trung và Nam Bộ cốm có thể dùng để chỉ thành phẩm sử dụng loại lúa nếp già tháng hơn rang nổ bung ra và sau đó được ngào với đường. Nổi tiếng nhất có lẽ là cốm làng Vòng, đặc sản của làng Vòng (thôn Hậu) cách trung tâm Hà Nội khoảng 5–6 km, nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
 
- 
    - Hồng
- Loại cây cho trái, khi chín có màu vàng cam hoặc đỏ. Tùy theo giống hồng mà quả có thể giòn hoặc mềm, ngọt hoặc còn vị chát khi chín.
 
- 
    - Bánh tráng
- Miền Trung và miền Nam gọi là bánh tráng, miền Bắc gọi là bánh đa. Đây một dạng loại bánh làm từ bột gạo, tráng mỏng, phơi khô, khi ăn có thể nướng giòn hoặc ngâm sơ với nước cho mềm để cuốn các thức ăn khác. Ngoài ra, bánh tráng còn có thể được làm với các thành phần khác để tạo thành bánh tráng mè, bánh tráng đường, bánh tráng dừa... mỗi loại có hương vị khác nhau.
 
- 
    - Tôm he
- Một loại tôm ngon và quý, đặc sản của vùng biển Quảng Ninh. Từ tôm he có thể chế biến thành nhiều món ngon và bổ dưỡng như ruốc tôm he, tôm he nhồi, tôm he nhúng...
 
- 
    - Đồng cốt
- Người được cho là có khả năng đặc biệt, có thể cho thần linh, ma quỷ, hồn người đã chết mượn thể xác (xương cốt) của mình trong chốc lát, qua đó các linh hồn này có thể giao tiếp với người đang sống.
 
- 
    - Loan
- Theo một số điển tích thì phượng hoàng là tên chung của một loại linh vật: loan là con mái, phượng là con trống. Cũng có cách giải nghĩa khác về loan, mô tả loan là một loài chim giống với phượng hoàng. Trong văn thơ cổ, loan và phụng thường được dùng để chỉ đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng (đèn loan, phòng loan...)
Nào người phượng chạ loan chung, 
 Nào người tiếc lục tham hồng là ai
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Ngô đồng
- Một loại cây gỗ rất cao (có thể hơn 17 mét), thân lớn (khoảng nửa mét), vỏ màu lục xám hoặc nâu xám (khi già), rụng lá vào mùa thu. Gỗ ngô đồng rất nhẹ, màu trắng vàng, có vân, thường dùng làm nhạc cụ. Ngô đồng đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Trung Hoa và các nước đồng văn (Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam), thường được đề cập trong thơ ca. Tương truyền chim phượng hoàng luôn chọn đậu trên cành ngô đồng.
Ô hay buồn vương cây ngô đồng 
 Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
 (Tì bà - Bích Khê).
 
- 
    - Tiện
- Gọt vòng quanh cho đứt hoặc tạo thành khía.
 
- 
    - Trai (gái) tơ
- Trai gái mới lớn, chưa có vợ có chồng.
 
- 
    - Cá chép
- Tên Hán Việt là lí ngư, một loại cá nước ngọt rất phổ biến ở nước ta. Ngoài giá trị thực phẩm, cá chép còn được nhắc đến trong sự tích "cá chép vượt vũ môn hóa rồng" của văn hóa dân gian, đồng thời tượng trưng cho sức khỏe, tài lộc, công danh.
Ở một số địa phương miền Trung, cá chép còn gọi là cá gáy. 
 
- 
    - Sầu tư
- Nỗi buồn riêng.
 
- 
    - Cội
- Gốc cây.
 
- 
    - Sao Kim
- Hành tinh thứ hai trong hệ Mặt Trời, khi xuất hiện lúc chiều tối thì được gọi là sao Hôm, khi xuất hiện lúc sáng sớm thì được gọi là sao Mai. Người xưa lầm tưởng sao Hôm và sao Mai là hai ngôi sao riêng biệt. Trong thi ca, sao Hôm là hoán dụ của hoàng hôn, còn sao Mai là hoán dụ của bình minh.
 
- 
    - Kê
- Cây lương thực cùng họ với lúa, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, tập trung thành một bông dài.
 
- 
    - Thị
- Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được.
Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng. 
 (Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh)
 
- 
    - Trôn
- Mông, đít, đáy (thô tục).
 
- 
    - Oản
- Bánh làm bằng xôi nếp hoặc bột bánh khảo nén vào khuôn hình nón cụt để cúng.
 
- 
    - Chuối ngự
- Chuối quả nhỏ, khi chín vỏ rất mỏng, màu vàng, thịt chắc và thơm. Xưa kia giống chuối này được đem tiến vua nên có tên gọi là chuối ngự.
 
- 
    - Làng Ngang
- Tên một làng nay thuộc xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
 
- 
    - Làng Quài
- Chợ Quài, thuộc xã Thái Hà, Thái Thụy, Thái Bình.
 
- 
    - Cá mát
- Một loại cá nước ngọt, mình có từ ba đến sáu chấm đen, vây màu hồng. Cá mát nhỏ con chỉ bằng hai ba ngón tay người lớn. Con to nhất cũng chỉ nặng từ 0,5kg đến 0,8kg. Cá sống từng đàn ở các khe đá và nơi nước chảy xiết, thường bơi kiếm ăn vào ban đêm. Bắt đầu từ tháng 8 âm lịch là mùa cá mát. 
Cá mát vừa lành vừa bổ, thịt thơm ngon, mỡ béo, ít xương, tốt cho sức khỏe. Ở nước ta, cá mát có nhiều ở sông Giăng, Nghệ An, và được xem là đặc sản Nghệ An. 
 
- 
    - Bí
- Loại cây dây leo được trồng mọc trên giàn để lấy quả. Tương tự như bầu, quả, hoa, hạt và đọt bí được dùng làm thức ăn. Hai loại bí thường gặp nhất là bí xanh (còn gọi là bí đao, bí dài, bí chanh) và bí đỏ (bí rợ).
 
- 
    - Huê
- Hoa (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Gọi như thế do kiêng húy tên của bà Hồ Thị Hoa, chính phi của hoàng tử Đảm (về sau là vua Minh Mạng).
 
- 
    - Sịa
- Đồ đan bằng tre, nứa, lòng nông, mắt thưa, nhỏ hơn cái nia, dùng để phơi hoặc sấy.
 
- 
    - Dưa gang
- Một loại dưa quả dài, vỏ xanh pha vàng cam (càng chín sắc vàng càng đậm), kích thước tương đối lớn.
 
- 
    - Chình
- Cái chĩnh nhỏ, dùng để đựng gạo hoặc mắm (phương ngữ).
 
- 
    - Nồi bảy, nồi ba
- Cách phân loại độ lớn của nồi thời xưa. Nồi bảy nấu được bảy lon gạo, nồi ba nấu được ba lon.
 
- 
    - Mướp đắng
- Miền Trung và miền Nam gọi là khổ qua (từ Hán Việt khổ: đắng, qua: dưa) hoặc ổ qua, một loại dây leo thuộc họ bầu bí, vỏ sần sùi, vị đắng, dùng làm thức ăn hoặc làm thuốc.
 
- 
    - Ki
- Một loại giỏ đan bằng nan tre (tương tự như cần xé) thường gặp ở Trung và Nam Bộ, dùng để đựng trái cây, nông sản.
 
- 
    - Từ bi
- Còn gọi là cây đại bi, long não hương, mai hoa não, có lẽ vì có mùi gần giống như mùi long não. Cây thuộc loại cây bụi nhỏ, mọc hoang, thân và lá có lông mịn, lá hình trứng, hai đầu nhọn, mép lá có răng cưa, vò lá thấy thơm mùi long não. Cây từ bi là vị thuốc chữa được nhiều bệnh như cảm sốt, cúm, ra mồ hôi, đau bụng do ăn không tiêu, ho nhiều đờm, gãy xương, vết lở loét, sưng đau, mất ngủ, tâm thần kích thích, phù nề, viêm xoang...
 
- 
    - Mận
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, hoa trắng, nở vào mùa xuân. Quả mận vị chua ngọt, có loại vỏ màu tím, xanh nhạt, vàng, hay đỏ. Các bộ phận của cây mận như quả, rễ, nhựa, lá, nhân hạt... đều có tác dụng chữa bệnh.
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. 
 
- 
    - Đào
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, cũng được trồng để lấy quả hay hoa. Hoa đào nở vào mùa xuân, là biểu tượng của mùa xuân và ngày Tết ở miền Bắc. Quả đào vị ngọt hoặc chua, mùi thơm, vỏ quả phủ một lớp lông mịn. Đào xuất hiện rất nhiều trong văn học cổ Trung Quốc và các nước đồng văn. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
 
- 
    - Nhài
- Còn gọi là lài, loại cây nhỏ có hoa màu trắng rất thơm. Nhân dân ta thường dùng hoa lài để ướp trà.
 
- 
    - Ngâu
- Một loài cây bụi nhỏ. Trong văn hóa người Việt, ngâu là một trong ba loài gắn liền với nghệ thuật thưởng thức trà hương của người xưa. Cây ngâu gắn liền với kiến trúc Việt cổ. Nhà dân dã thuần Việt thường có cây ngâu trước sân. Đình chùa và các công trình văn hóa tín ngưỡng của người Việt cũng luôn có bóng dáng và hương thơm của hoa ngâu. Trong kiến trúc hiện đại ở Việt Nam cũng như Đông Nam Á, ngâu được sử dụng nhiều trong cảnh quan làm cây cảnh, có thể xén cắt hình khối dễ dàng (tròn đều, vuông góc).
 
- 
    - Mẫu đơn
- Một loại cây sống lâu năm, cho hoa rất to, đường kính đạt tới 15-20 cm, màu đỏ, tím hoặc trắng, mùi thơm gần giống mùi thơm của hoa hồng, do vậy hay được trồng làm cảnh. Theo y học cổ truyền, bộ phận dùng làm thuốc là vỏ rễ phơi hay sấy khô, gọi là mẫu đơn bì. Mẫu đơn còn được gọi là hoa phú quý, hoa vương, thiên hương quốc sắc...
 
- 
    - Dạ hợp
- Còn gọi là cây hoa trứng gà, một loại cây cho hoa màu trắng, ra đơn độc ở kẽ lá, rất thơm, dùng ướp chè được. Hoa dạ hợp tượng trưng cho sự êm ấm của vợ chồng và hôn nhân hạnh phúc.
 
- 
    - Tấn Tần
- Việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công. Tần Mục Công lại gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần.
Trộm toan kén lứa chọn đôi, 
 Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.
 (Truyện Hoa Tiên)
 
- 
    - Ái ân
- Nguyên nghĩa là tình ái và ân huệ khắng khít với nhau. Về sau được hiểu là sự âu yếm, giao hợp của vợ chồng hay cặp tình nhân.
 
- 
    - Tham phú phụ bần
- Vì ham giàu (phú) mà phụ bạc người nghèo khó (bần).
 
- 
    - Mối manh
- Làm mối (đồng nghĩa với mai mối).
 
- 
    - Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
 
- 
    - Cheo
- Khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái khi làm lễ dạm hỏi theo tục lệ xưa.
 
- 
    - Vãng lai
- Đi lại (từ Hán Việt).
 
- 
    - Tiết khí
- Gọi tắt là tiết, một khái niệm về thiên văn bắt nguồn từ Trung Quốc. Tiết khí là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau 15°, khoảng cách kề nhau giữa hai tiết khí là 14-16 ngày. Tiết khí có mối liên quan gần gũi với các yếu tố khí hậu, thời tiết ở các nước nông nghiệp. Hiểu theo nghĩa rộng, tiết còn chỉ một khoảng thời gian, thời cuộc.
 
- 
    - Én đưa thoi
- Én bay lượn trên bầu trời như thoi trong khung cửi. Thường dùng để chỉ hoặc miêu tả mùa xuân.
Ngày xuân con én đưa thoi 
 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Sân hòe
- Từ chữ Hán hòe đình, nghĩa là sân có trồng cây hòe. Đời nhà Tống, Vương Hựu tự tay trồng ba cây hòe trong sân nhà và nói rằng "Con cháu ta sau này sẽ có đứa làm đến Tam công." Về sau, con của Vương Hựu là Vương Đán làm đến Tam công thật. Sân hòe vì vậy chỉ nhà có con cái đỗ đạt, song cũng dùng để chỉ nhà cha mẹ.
Sân hòe đôi chút thơ ngây, 
 Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Niên tàn nguyệt tận
- Hết năm hết tháng (chữ Hán). Cũng nói là niên cùng nguyệt tận.
 
- 
    - Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Thiên cung
- Cung điện trên trời, cũng gọi là thiên đình. Theo thần thoại Trung Quốc và một số nước Đông Á (trong đó có Việt Nam), trên trời có cung điện cho Ngọc Hoàng và các thần thánh ăn ở, vui chơi và trông coi mọi việc trong vũ trụ.
 
- 
    - Bắc Ninh
- Một tỉnh thuộc khu vực phía bắc của vùng đồng bằng sông Hồng, rất giàu truyền thống văn hóa. Bắc Ninh có nhiều lễ hội (hội Lim, hội Đền Đô, hội Phù Đổng...), nhiều đền chùa (chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Phật Tích...), là quê hương của danh tướng Cao Lỗ, Lý Thái Tổ, Nguyên Phi Ỷ Lan, đồng thời là cái nôi của dân ca quan họ.
 
- 
    - Từ Sơn
- Một địa danh thuộc tỉnh Bắc Ninh. Trước đây Từ Sơn là một phủ (nên còn gọi là Phủ Từ), thuộc thừa tuyên Kinh Bắc. Sau cách mạng tháng Tám (1945), bỏ cấp phủ, đổi làm huyện Từ Sơn. Hiện nay Từ Sơn thị xã cửa ngõ phía Nam của Bắc Ninh, tiếp giáp Hà Nội. Từ Sơn là quê hương của các vị vua nhà Lý và nhiều danh nhân văn hóa - lịch sử như Vạn Hạnh Thiền sư, Ngô Gia Tự, Trần Đức Thảo...
 
- 
    - Nhị Hà
- Tên gọi trước đây của đoạn sông Hồng chảy qua địa phận Hà Nội, tính từ đoạn sông huyện Từ Liêm (hữu ngạn) và Đông Anh (tả ngạn) chảy qua phía Nam huyện Thanh Trì. Có thuyết nói rằng, đoạn sông này chảy uốn khúc như cái vòng đeo tai, nên có tên gọi là Nhị Hà (chữ Hán nhị 珥 là vòng đeo tai). Sông còn có tên khác là Phù Luông vì nước sông chảy cuốn theo phù sa sắc đỏ như son, đến mùa thu nước mới trong trở lại.
 
- 
    - Ló
- Lúa (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Đọi
- Cái chén, cái bát (phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ).
 






































