Tài trai đâu đáng tài trai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước tướng hãy còn tiền
Canh sau thua hết, ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi, đưa tay thò
Cái ngoảnh lại, giả đò chén say
Còn tiền đánh cái cũng hay
Hết tiền đi ngủ, cũng hay giật mình
Tưởng sự tình, bạc nầy hai sấp
Chẳng ai ngờ, nó lại sấp ba …
Tìm kiếm "cánh gà"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Mù u nhỏ rễ ăn lanMù u nhỏ rễ ăn lan 
 Sợ mình nói gạt qua đàng đấy thôi
 Phụng hoàng chấp cánh bay xuôi
 Liệu bề thương đặng, mình ơi, tôi chờ.
 Nước lên khỏi bực tràn bờ,
 Thương mình thương vậy, biết chờ đặng không?
 Đặng không tôi cũng gắng công
 Đợi cho con cá hóa rồng sẽ hay
 Gặp mình may quá là may
 Trông cho trời tối bắt tay đặng về
- 
        
        
        
    
    Bắc Nam là con một nhàBắc Nam là con một nhà 
 Là gà một mẹ, là hoa một cành
 Nguyện cùng biển thẳm non xanh,
 Thương nhau nuôi chí đấu tranh cho bền
- 
        
        
        
    
    Kiến bất thủ như tầm thiên lí
- 
        
        
        
    
    Ðàn ông nằm với đàn ông
- 
        
        
        
    
    Hang sâu cây lá rậm rì
- 
        
        
        
    
    Anh đi đường ấy xa xaAnh đi đường ấy xa xa 
 Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
 Nước non một gánh chung tình.
 Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng?
- 
        
        
        
    
    Em chưa có chồng chân rời tay rảnh
- 
        
        
        
    
    Cách nhau một giậu cúc tần
- 
        
        
        
    
    Cheo leo núi đá xây thànhCheo leo núi đá xây thành 
 Đầu non mây trải, chen cành suối tuôn
 Biển khơi, nước chẳng quên nguồn
 Gành xa sóng vỗ tiếng luồn trong hoa
- 
        
        
        
    
    Cái bống mặc xống ngang chânCái bống mặc xống ngang chân 
 Lấy chồng kẻ chợ cho gần, xem voi
 Trèo lên trái núi mà coi
 Thấy ông quản tượng cưỡi voi đánh cồng
 Túi vóc mà thêu chỉ hồng
 Têm trầu cánh phượng cho chồng đi thi
 Một mai chồng đỗ, vinh quy
 Võng anh đi trước, em thì võng sau
 Tàn quạt, hương án theo hầu
 Vinh quy bái tổ, giết trâu ăn mừng
- 
        
        
        
    
    Có một con công
- 
        
        
        
    
    Ăn chanh ngồi gốc cây chanh
- 
        
        
        
    
    Buổi mai ăn cơm cho noBuổi mai ăn cơm cho no 
 Đi ra chợ Gio
 Mua chín cái tréc
 Đắp chín cái lò
 Cái nấu canh ngò
 Cái kho củ cải
 Cái nấu cải chuối xanh
 Cái nấu cá kình
 Cái rim thịt vịt
 Cái hầm thịt gà
 Cái nấu om cà
 Cái kho đu đủ
 Cái nấu củ khoai tây
 Nghe tin anh học trường này
 Bồn chồn trong dạ bỏ chín cái tréc này không coi.Dị bản
- 
        
        
        
    
    Bèo kia ai thả mà trôi
- 
        
        
        
    
    Nhờ trời mưa thuận gió hòaNhờ trời mưa thuận gió hòa 
 Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau
 Chim, gà, cá, lợn, cành cau
 Mùa nào thức nấy giữ màu nhà quê.
- 
        
        
        
    
    Thuốc lào chồng hút vợ sayThuốc lào chồng hút vợ say 
 Thằng con châm điếu lăn quay ra nhà
 Có anh hàng xóm đi qua
 Hít phải khói thuốc say ba bốn tuần
 Thêm chú gà trống ngoài sân
 Mổ nhầm bã thuốc cánh chân cứng đờ
 Lại còn chị mái hoa mơ
 Hơi thuốc bay đến bơ phờ cả lông
 Khói thuốc cứ toả vòng vòng
 Say hết tất cả nước trong, nước ngoàiDị bản
- 
        
        
        
    
    Lĩnh lương còn được năm hàoLĩnh lương còn được năm hào 
 Ba hào đong gạo, thuốc lào vài xu
 Một xu thìa mắm tôm khô
 Một hào cá ót, một xu tỏi hành
 Hai xu rau diếp rau răm
 Ba xu mua chén muối vừng về rang
 Thế là được bữa cơm sang
 Có canh rau muống, vừng rang đủ mùi
 Còn con được một xu xôi
 Vợ trầu với thuốc, ngày mai đi mần
 Nói ra chẳng bõ tủi thân
 Một tháng một lần được một bữa no
 Đem ngủ lán dột nằm co
 Ngày ngày chui rúc trong lò tối tăm
 Bỏ về thì chẳng có ăn
 Vợ con đói khổ biết lần vào đâu…
- 
        
        
        
    
    Giàu chi anh mà đòi chính chính, hầu hầu
- 
        
        
        
    
    Hỡi anh áo trắng quần là
Chú thích
- 
    - Tổ tôm
- Một trò chơi bài lá phổ biến trong dân gian ngày trước (hiện chỉ thấy được chơi ở nước ta), thường chơi trong các dịp lễ, Tết. Tên gọi của trò chơi được đọc chệch ra từ chữ "tụ tam" nghĩa là hội tụ của ba lại hàng Văn, Vạn và Sách.
 
- 
    - Xóc đĩa
- Lối đánh bạc ăn tiền bằng cách xóc bốn đồng tiền (hoặc bốn miếng bìa có hai mặt khác nhau) trong một cái đĩa, trên có bát úp kín, ai đoán trúng có mấy đồng sấp, mấy đồng ngửa thì được. Có nơi gọi xóc đĩa là xóc dĩa, hoặc có tên khác là mở bát.
 
- 
    - Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
 
- 
    - Lọ hồ
- Lọ đựng tiền xâu trong một canh bạc.
 
- 
    - Cái
- Cũng gọi là nhà cái, người nắm vai chủ của một ván bài, sới bạc hoặc cuộc cá cược.
 
- 
    - Mù u
- Một loại cây gỗ lớn khá quen thuộc ở Trung và Nam Bộ. Cây mù u cùng họ với cây măng cụt, lớn chậm, gỗ cứng, thường mọc dọc bờ sông rạch, quả tròn, vỏ mỏng, hạt rất cứng có thể dùng để ép lấy dầu. Dầu mù u có nhiều dược tính và được dùng làm nhiều loại thuốc, ví dụ như thuốc trị bòng và chăm sóc da. Xưa kia, người dân Nam Bộ thường dùng dầu mù u như một nhiên liệu tự nhiên sẵn có và rẻ tiền để thắp đèn. Cây mù u còn cho gỗ tốt, thường được dùng để đóng ghe thuyền. 
 
- 
    - Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
 
- 
    - Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
 
- 
    - Kiến bất thủ nhi tầm thiên lí
- Ở ngay trước mắt mà không giữ lấy, cứ mải đi tìm ở chốn xa xôi.
 
- 
    - Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
 
- 
    - Đáo xứ lai
- Bay về nơi nao.
 
- 
    - Tưởng
- Nghĩ, cho rằng.
 
- 
    - Chà
- Cành cây có nhiều nhánh nhỏ, thường dùng để rào hoặc thả dưới nước cho cá đến ở. Miền Trung có chỗ gọi là nè (cành nè, cây nè).
 
- 
    - Vải lĩnh
- Còn gọi là lãnh, loại vải dệt bằng tơ tằm nõn, một mặt bóng mịn, một mặt mờ. Lĩnh được cho là quý hơn lụa, có quy trình sản xuất rất cầu kì. Vải lãnh thường có màu đen, trơn bóng hoặc có hoa, gọi là lĩnh hoa chanh, thường dùng để may quần dài cho các nhà quyền quý. Lĩnh Bưởi ở vùng Kẻ Bưởi miền Bắc (gồm các làng An Thái, Bái Ân, Hồ Khẩu, Trích Sài) và lãnh Mỹ A ở miền Nam là hai loại vải lãnh nổi tiếng ở nước ta.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao 
 Lưng đeo dải yếm đào
 Quần lĩnh, áo the mới
 Tay cầm nón quai thao
 (Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp)
 
- 
    
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Chín Rậm.
 
- 
    - Răng
- Sao (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Rứa
- Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Bá niên
- Trăm năm (từ Hán Việt).
 
- 
    - Cúc tần
- Cũng gọi là cây lức, một loại cây bụi mọc hoang, cũng được trồng làm hàng rào hoặc làm thuốc. Trong các bài thuốc dân gian, cây và lá cúc tần được dùng để chữa lao lực, chữa ho, đau đầu... Lá cây còn dùng để nấu một số món ăn và nấu nước tắm cho trẻ sơ sinh.
 
- 
    - Yên Thái
- Tên một làng nằm ở phía tây bắc thành Thăng Long, nay là thủ đô Hà Nội. Tên nôm của làng là làng Bưởi, cũng gọi là kẻ Bưởi. Theo truyền thuyết ngày xưa đây là vùng bãi lầy nơi hợp lưu của sông Thiên Phù và sông Tô Lịch. Dân vùng Bưởi có hai nghề thủ công truyền thống là dệt lĩnh và làm giấy.
 
- 
    - Chợ Nhồi
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Chợ Nhồi, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Têm trầu
- Quệt vôi vào lá trầu không, cuộn lại rồi cài chặt lại bằng cuống lá để thành một miếng trầu vừa miệng ăn.
 
- 
    - Xống
- Váy (từ cổ).
 
- 
    - Kẻ chợ
- Kinh đô (từ cũ). Khi dùng như danh từ riêng, Kẻ Chợ là tên gọi dân gian của kinh thành Thăng Long xưa.
 
- 
    - Quản voi
- Còn gọi là quản tượng, người lo việc coi sóc và huấn luyện voi.
 
- 
    - Cồng
- Nhạc cụ dân tộc thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có hoặc không có núm. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để đánh cồng, chiêng. Cồng, chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao. Nhân dân ta thường đánh cồng chiêng trong các dịp lễ hội, hoặc khi ra trận để cổ vũ tinh thần quân sĩ.
 
- 
    - Vóc
- Một loại vải tơ tằm, bóng mịn, có hoa, dệt bằng sợi đồng màu, dùng làm tán thờ thần hay may y phục cho vua chúa, quan lại.
 
- 
    - Vinh quy
- Trở về một cách vẻ vang (thường nói về người thi đỗ các khoa thi xưa kia). Từ này thường được dùng trong cụm "vinh quy bái tổ" (trở về bái lạy tổ tiên).
Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy 
 Hai bên có lính hầu đi dẹp đường.
 Tôi ra đón tận gốc bàng
 Chồng tôi xuống ngựa, cả làng ra xem.
 (Thời trước - Nguyễn Bính)
 
- 
    - Tàn
- Cũng gọi là tán, đồ dùng có cán dài cắm vào một khung tròn bọc nhiễu hoặc vóc, xung quanh rủ dài xuống, để che cho vua quan thời xưa, hoặc dùng trong các đám rước.
 
- 
    - Hương án
- Bàn thờ, thường để bát hương và các vật thờ cúng khác.
 
- 
    - Vông nem
- Còn gọi là cây vông, một loại cây thân có thể cao đến mười mét, có nhiều gai ngắn. Lá vông thường được dùng để gói nem hoặc để làm thuốc chữa bệnh trĩ, mất ngủ…
 
- 
    - Cội
- Gốc cây.
 
- 
    - Gio Linh
- Một huyện nhỏ của tỉnh Quảng Trị, từng là bờ Nam của vĩ tuyến 17, nơi chia đôi đất nước thành hai miền Bắc - Nam.
 
- 
    - Cái tréc
- Cái trách (phương ngữ miền Trung), từ dùng chỉ nồi đất dùng để kho cá.
 
- 
    - Ngò
- Còn gọi là ngò rí, rau mùi, loại rau có mùi thơm, thường được trồng làm rau thơm và gia vị.
 
- 
    - Trách
- Một loại nồi đất, hơi túm miệng, đáy bầu, hông phình.
 
- 
    - Rau má
- Một loại cây thân thảo ngắn ngày, thường được trồng để ăn tươi hoăc sắc lấy nước uống. Nước rau má có tác dụng giải độc, hạ huyết áp, làm mát cơ thể. Lá rau má hình thận, nhỏ bằng đồng xu.
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Thuyền quyên
- Gốc từ chữ thiền quyên. Theo từ điển Thiều Chửu: Thiền quyên 嬋娟  tả cái dáng xinh đẹp đáng yêu, cho nên mới gọi con gái là thiền quyên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên 
 Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Thuốc lào
- Theo học giả Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữ và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo (cỏ nhớ thương), vì người nghiện thuốc lào mà hai, ba ngày không được hút thì trong người luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu, trong đầu luôn luôn nghĩ đến một hơi thuốc, giống như nhớ người yêu lâu ngày không gặp. Thời xưa, ngoài "miếng trầu là đầu câu chuyện," thuốc lào cũng được đem ra để mời khách. Hút thuốc lào (cũng gọi là ăn thuốc lào) cần có công cụ riêng gọi là điếu.
Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào. 
 
- 
    - Thuốc rê
- Thuốc lá sợi được sản xuất theo lối thủ công, khi hút thường phải tự tay vấn thành điếu. Thuốc rê cũng có thể dùng để nhai. Những người nghiện thuốc ngày trước thường đi đâu cũng mang theo một bọc thuốc rê.
 
- 
    - Hào
- Một trong các đơn vị tiền tệ (hào, xu, chinh, cắc) bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ thời Pháp thuộc. Mười xu bằng một hào, mười hào bằng một đồng.
 
- 
    - Cá liệt
- Còn gọi là cá ót, một loại cá biển có thân có hình thoi, dẹt bên, to khoảng ba, bốn ngón tay, nhiều xương. Cá thường được kho khô ăn kèm với cơm, nấu canh chua hay nấu riêu, hoặc để làm bột cá.
 
- 
    - Xà lách
- Còn gọi là rau diếp, một loại rau ăn kèm hay dùng để trang trí món ăn. Tên xà lách nguyên từ chữ Pháp salade, nghĩa là món rau củ trộn.
 
- 
    - Rau răm
- Một loại cây nhỏ, lá có vị cay nồng, được trồng làm gia vị hoặc để ăn kèm.
 
- 
    - Vừng
- Miền Trung và miền Nam gọi là mè, một loại cây nông nghiệp ngắn ngày, cho hạt. Hạt vừng là loại hạt có hàm lượng chất béo và chất đạm cao, dùng để ăn và ép lấy dầu.
 
- 
    - Mần
- Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
 
- 
    - Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Là
- Hàng dệt bằng tơ nõn, thưa và mỏng, thường được nhuộm đen.
 


























