Bốn giờ cắp nón đi ra,
Mặt chó không biết, mặt gà cũng không
Tìm kiếm "con rùa"
-
-
Tội vịt chưa qua, tội gà đã tới
Tội vịt chưa qua,
Tội gà đã tới -
Bảy bồ cám, tám bồ bèo
-
Người hiền nuôi sói hóa nai
-
Con chó mà có móng treo
-
Chó đen giữ mực
-
Chó đá vẫy đuôi
-
Ruồi bu kiến đậu
Ruồi bu kiến đậu
-
Chớ đánh rắn trong hang, chớ đánh đại bàng trên núi
Chớ đánh rắn trong hang, chớ đánh đại bàng trên núi
Dị bản
Chớ đánh rắn trong hang, chớ đánh đại bàng trên mây
Chớ đánh rắn trong hang,
Chớ đánh đại bàng trên chín tầng mây
-
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm. -
Giàu lợn nái, lãi gà con
Giàu lợn nái, lãi gà con
-
Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu
Dị bản
Thịt nạc dao phay, xương cẳng rìu búa
-
Buồng nhà trong mắc dở chăn tằm
-
Rừng hoang sóc nhảy tưng bừng
Rừng hoang sóc nhảy tưng bừng,
Hoa chưa nở nhụy, bướm đừng lao xao -
Chim khôn mắc bẫy vì người
Chim khôn mắc bẫy vì người
Ốc khôn ốc cũng vì mồi chết oan
Ta về hái nắm sắn non
Rau sấm rau sét bẫy con ốc lồi
– Chim khôn chết mệt vì mồi
Anh đây chết chắc vì người đa đoan
Người đa đoan lòng dạ đa đoan
Như con thuyền bắt ốc lắm nan ít hồ
Đồng triều lắm ốc sóng to
Thuyền anh trôi dạt sang nhờ thuyền em
Hóa thành con ốc đồng chiêm
Cái thân mốc thếch như thuyền chở phân?
– Trông lên núi Ốc xây vần
Cớ sao Ốc lại hóa thành núi cao? -
Bướm châm mà bướm lại lầm
Bướm châm mà bướm lại lầm
Bông kia nở sớm ong châm hết rồi -
Trách ai bẻ cánh chim hồng
-
Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu
Thân trâu trâu lo,
Thân bò bò liệu -
Bụng trâu làm sao, bụng bò làm vậy
Bụng trâu làm sao, bụng bò làm vậy
-
Dai như trâu đái
Dai như trâu đái
Chú thích
-
- Bồ
- Đồ cỡ lớn đựng thóc lúa, thường đan bằng tre.
-
- Bảy bồ cám, tám bồ bèo
- Nhiều công sức, nhất là công sức nuôi dưỡng.
-
- Lợn rừng
- Cũng gọi là lợn lòi, loài lợn được xem là thủy tổ của lợn nhà. Lợn rừng nặng 40-200 kg, lông thô cứng màu đen xám, thường có răng nanh to dài chìa ra ngoài mõm, sống thành đàn 5-20 con trong rừng hoặc ven các nương rẫy, kiếm ăn đêm , ngày nghỉ trong các bụi rậm, thích đằm mình trong vũng nước. Lợn rừng ăn tạp gồm các loại củ, quả giàu tinh bột, các loại quả cây rừng, măng tre nứa, chuối và nhiều động vật nhỏ như nhái, ngoé, giun đất, ong...
Tại nước ta, lợn rừng có mặt khắp các tỉnh miền núi và trung du.
-
- Huyền đề
- Móng thừa ở chân chó, cũng gọi là móng treo hoặc móng đeo. Chó có móng này gọi là chó huyền đề.
-
- Chó đen giữ mực
- Người ngoan cố, bảo thủ, không chịu nhận khuyết điểm của mình, hoặc có tật xấu không chịu sửa chữa.
-
- Chó đá vẫy đuôi
- Chuyện hoang đường, bịa đặt.
-
- Dao phay
- Dao có lưỡi mỏng, bằng và to bản, dùng để băm, thái.
-
- Dao bầu
- Loại dao to, mũi nhọn, phần giữa phình ra, thường dùng để chọc tiết lợn, trâu bò.
-
- Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu
- Tùy loại thịt mà dùng loại dao thích hợp để thái.
-
- Mắc
- Bận làm một việc gì đó (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
-
- Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Đa đoan
- Lắm mối, lắm chuyện lôi thôi, rắc rối.
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình
(Truyện Kiều)
-
- Nan
- Thanh tre hoặc nứa vót mỏng, dùng để đan ghép thành các đồ gia dụng như nong nia, thúng mủng...
-
- Đồng triều
- Cánh đồng ở vùng đất ngập nước ven biển, hình thành từ bùn do sông và thuỷ triều mang tới. Đồng triều chủ yếu được dùng để nuôi trồng thủy hải sản.
-
- Chiêm
- (Lúa hay hoa màu) gieo cấy ở miền Bắc vào đầu mùa lạnh, khô (tháng mười, tháng mười một) và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều (tháng năm, tháng sáu), phân biệt với mùa. Đây cũng là cách gọi tắt của "lúa chiêm." Theo sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, người Việt trước đây đã học cách trồng một số giống lúa gieo vào mùa đông, thu hoạch vào mùa hạ từ người Chiêm Thành, nên gọi là lúa chiêm hay lúa chăm.
-
- Núi Ốc
- Tên chữ là Ốc Sơn, còn gọi là Cô Sơn, một ngọn núi nay thuộc địa phận xã Hà Phong, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Gọi như vậy vì trông xa núi có hình dáng giống một con ốc lồi khổng lồ.
-
- Chim hồng
- Còn gọi là chim hồng hộc, tên Trung Quốc của loài ngỗng trời. Là một loài chim bay rất cao, chim hồng thường được dùng làm hình ảnh ẩn dụ trong văn chương Trung Quốc để chỉ khí phách và tài năng của người quân tử.
Chim hồng, chim hộc bay cao được là nhờ ở sáu trụ lông cánh. Nếu không có sáu trụ lông cánh thì chỉ là chim thường thôi (Trần Hưng Đạo).