Tìm kiếm "đàm tiếu"

  • Con nhà ai nho nhỏ mà to gan

    Con nhà ai nho nhỏ mà to gan
    Thấy người ta đi lính mộ cũng xuống Hàn kí tên
    Về nhà con khóc vợ rên
    Hương trên xã dưới bốn bên xì xèo
    Vịn vai chàng nước mắt chảy xuôi
    Ai làm nên nỗi đôi đứa tui thế này
    Bước chân xuống bến tàu Tây
    Chân tròi góc bể biết rày còn gặp không
    Dậm chân đấm ngực kêu trời
    Vợ chồng gần gũi chưa mấy năm trời lại xa
    Xứ người đất lạ xông pha
    Cái đời lính mộ khổ là biết bao

  • Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
    Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.

  • Tôi lạy ông Cầu bà Quán

    Tôi lạy ông Cầu bà Quán
    Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
    Nó ăn nó chơi
    Như con ngựa ngáp
    Việc làm thì nhác
    Lại hay nỏ mồm
    Củ từ khoai môn
    Bao nhiêu cũng chứa
    Vớt bèo thì ngứa
    Xay thóc nhức đầu
    Chăn trâu ngã nắng
    Chồng giận có mắng
    Thì lại hờn cơm
    Ra chân đống rơm
    Cắn chắt trừ bữa
    Nhà có đám giỗ
    Luộc gà quăng mề
    Thổi cơm thì khê
    Rang vừng thì cháy
    Con mắt nhấp nháy
    Ăn vụng thành thần
    Lấy giẻ chùi chân
    Lấy rơm lau bát…

    Dị bản

    • Tôi lạy ông Cầu bà Quán
      Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
      Nó ăn nó chơi
      Nó tươi nó cười
      Như con ngựa ngáp
      Làm ăn chậm chạp
      Có tí nỏ mồm
      Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa
      Vớt bèo thì ngứa
      Xay lúa nhức đầu
      Chăn trâu ngã nắng
      Chồng giận chồng mắng
      Có tính hờn cơm
      Ra chân đống rơm
      Cắn chắt trừ bữa
      Nay lần mai lữa
      Mày giống tính ai?

  • Thương nhau vì nết chẳng hết chi người

    Thương nhau vì nết chẳng hết chi người
    Anh không tin dạ, anh sợ đổi dời
    Em xin cắt tóc thề có đất trời chứng minh
    – Nghe em phân cạn, vô hạn thương tâm
    Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm
    Em thề không thuyền khác ôm cầm
    Anh nhìn mái tóc phải tuôn dầm lệ châu!

  • Biết ai than thở sự tình

    Biết ai than thở sự tình
    Chẳng qua mình lại biết mình mà thôi
    Lấy chồng gặp phải kẻ tồi
    Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay
    Cả ngày chỉ rượu sưa say
    Khi nay thuốc phiện khi nay tài bàn
    Nói ra mang tiếng phũ phàng
    Nín đi thì não can tràng xiết bao
    Cũng thì phận gái má đào
    Người thì gặp được anh hào đảm đang
    Mình thì cũng dự phấn hương
    Gặp nơi lêu lổng chẳng thương chút nào

  • Anh lính là anh lính ơi

    Anh lính là anh lính ơi
    Em thương anh lính nắng nôi, sương hàn
    Lính vua, lính chúa, lính làng
    Ai bắt ra lính cho chàng phải đi
    Thương chàng như lá đài bi
    Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm mưa
    Nhớ chàng ra ngẩn vào ngơ
    Biết rằng quan cắt đến cơ độ nào?

  • Em thương anh cuốn gói cho tròn

    Em thương anh cuốn gói cho tròn,
    Chờ ba má ngủ, chun lòn cửa sau,
    – Anh ơi, ơn cha em chưa trả, nghĩa mẹ em chưa đền,
    Sao anh dám biểu em cuốn mền theo anh?

    Dị bản

    • Anh thương em cởi áo vo tròn
      Chờ cha mẹ ngủ, chun lòn cửa sau.

  • Tôi ở Cao Lãnh, tôi nghèo quá xá

    Tôi ở Cao Lãnh, tôi nghèo quá xá
    Tôi chèo vô Cà Mau, Rạch Giá
    Tôi mua ít giạ khoai lang
    Tôi bán một giạ lời được một cắc
    Tôi trở về thấy anh ngồi sòng tứ sắc
    Thời tôi kể chắc ảnh thua rồi
    Trời ơi, nhà nghèo con dăm bảy đứa
    Gạo tôi kiếm từng nồi anh có biết không?

    Dị bản

    • Tôi ở Trà Vinh nghèo quá
      Tôi chèo chiếc ghe vô Cà Mau, Rạch Giá
      Tôi mua ít tạ khoai lang
      Tôi đi thẳng Trà Bang
      Tôi bán một tạ lời mấy cắc
      Tôi trở về nhà thấy anh ngồi sòng tứ sắc
      Tôi kể chắc ảnh thua rồi.
      Úy trời đất ôi!
      Con đùm con đeo năm bẩy đứa,
      Gạo em kiếm từng nồi anh có thấy không?

  • Trăng thanh nhờ bởi trời trong

    Trăng thanh nhờ bởi trời trong
    Thương nhau từ chỗ mặn nồng mà thương
    Xưa rày xa cách đôi đường
    Chén thề gần cạn, khăn hường gần phai
    Sầu riêng thức trắng đêm dài
    Hai hàng nước mắt láng lai đêm trường
    Nhớ khi đi đứng ngoài đường
    Tay cầm tay dắt trao thương gởi sầu
    Thẩn thơ thơ thẩn đêm thâu
    Sương sa ướt đẫm mái đầu đôi ta
    Ước sao chàng thiếp một nhà
    Anh đàn em hát câu ca xuân tình
    Đừng làm đôi ngả lênh đênh
    Niềm vui không trọn chữ tình không xong
    Xốn xang dao cắt vào lòng
    Lời thề giữ vẹn, chữ đồng đừng quên

  • Cô kia cuốc đất bên cồn

    – Cô kia cấy đất bên cồn
    Tôi nghe tiếng đồn chữ nghĩa nhấp nhem
    Sao không chịu học cô em?
    Cô đẹp mà dốt ai thèm ưng cô?
    – Cá sặc mà rượt cá rô
    Ăn nói xô bồ chẳng nghĩ trước sau
    Anh kia đừng có chiêm bao
    Ai dốt hồi nào, anh dám chê khen?
    Tuy em chữ nghĩa nhấp nhem
    Anh không đi lính, ai thèm ưng anh?

  • Ngồi tựa vườn đào

    Ngồi tựa vườn đào
    Thấy người thục nữ ra vào
    Lòng những vấn vương
    Gió lạnh đêm trường
    Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường
    Cô để đó chờ ai?
    So chữ sắc tài
    Yêu nhau chớ để cho người trăng gió hái hoa
    Nguyện với trăng già
    Tơ hồng kết lại một nhà đầm ấm yên vui
    Ngồi tựa vườn đào
    Thấy người tri kỷ ra vào
    Em những ngẩn ngơ
    Tháng đợi năm chờ
    Nỗi niềm tâm sự bây giờ biết ngỏ cùng ai

    Dị bản

    • Ngồi tựa vườn đào
      Thấy người thục nữ ra vào
      Lòng những vấn vương
      Nửa chăn để đó, nửa giường,
      Em để chờ ai
      So chữ sắc tài
      Có công gắn bó, ai người phụ nghĩa quên công
      Nên chăng đấy vợ, đây chồng
      Bõ công cầu khẩn tơ hồng xe duyên

  • Mình rằng mình quyết lấy ta

    Mình rằng mình quyết lấy ta
    Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
    Hăm ba nay đã đến ngày
    Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
    Tháng giêng năm mới chưa nên
    Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
    Tháng hai có đỗ có khoai
    Ta lại vật nài cho đến tháng tư
    Tháng tư ngày chẵn tháng dư
    Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
    Tháng năm là tháng trâu đầm
    Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
    Tháng sáu lo chửa kịp tiền
    Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
    Tháng bảy là tháng mưa ngâu
    Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
    Tháng tám là tháng trăng thu
    Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
    Tháng chín là tháng mưa rươi
    Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
    Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
    Như chim trong lồng, như cá cắn câu

  • Bài ca người lính hôm nay

    Trải bao cuộc chiến, thắng rồi,
    Nay thời dân lính về ngơi, kiếm nghề:
    Đầu đường đại tá vá xe,
    Giữa đường trung tá bán chè đậu đen
    Cuối đường thiếu tá bán kem,
    Trong làng đại úy thổi kèn đám ma
    Trước sân thượng úy nuôi gà,
    Đầu hồi trung úy chăm và chú heo
    Ao sâu thiếu úy vớt bèo,
    Vườn sau thượng sĩ leo trèo bẻ cau
    Gốc đa trung sĩ cúp đầu,
    Bờ đê hạ sĩ hái rau “tập tàng”
    Xóm ngoài binh nhất vót nan,
    Xóm trong binh nhị gảy đàn ống bơ
    Ca rằng “trí dũng có thừa…”
    Bởi “chiến tranh” mới ra cơ sự này!

    Dị bản

    • Đầu đường đại tá vá xe
      Giữa đường trung tá bán chè đậu đen
      Cuối đường thiếu tá bán kem
      Về hưu đại úy thổi kèn đám ma
      Thượng úy thì đi buôn gà
      Trung úy về nhà lại bám đít trâu
      Hỏi rằng thiếu úy đi đâu
      Ba lô lộn ngược nhảy tàu Bắc Nam

    • Đầu đường đại tá vá xe
      Cuối đường trung tá bán chè đỗ đen
      Đại úy thì bán dầu đèn
      Để cho trung úy thổi kèn đám ma

  • Chàng cưới thiếp bạc nén, vàng thoi

    Chàng cưới thiếp bạc nén, vàng thoi
    Chàng về lựa họ cho hẳn cho hòi
    Đàn ông đội nón Gò Găng quai tả
    Đàn bà nón thượng quai liền
    Con trai đi hậu vác tiền
    Mặc áo màu huyền, bịt khăn nhiễu lượt
    Võng chàng đi trước, võng thiếp theo sau
    Thiên hạ ngó vô: Đám cưới nhà giàu!
    Sui gia cũng xứng, kép đào cũng xinh

  • Trách lòng con chó nhỏ sủa dai

    Trách lòng con chó nhỏ sủa dai
    Sủa nguyệt sơn đài, sủa bóng trăng thanh
    Trăng thanh vì bởi không mây
    Đôi ta gặp gỡ vì dây tơ hồng
    Dây tơ hồng không xe mà mắc
    Rượu Quỳnh tương không nhắp mà say
    – Thuận lòng con chó nhỏ sủa dai
    Sủa nguyệt sơn đài, sủa núi trơn lu
    Trơn lu vì bởi đám mây
    Đôi ta trắc trở vì dây tơ hồng
    Dây tơ hồng đứt rồi khó nối
    Hai đứa mình hai đứa hai nơi

  • Cha mẹ nàng đòi ăn cơm trắng cá thu

    Cha mẹ nàng đòi ăn cơm trắng cá thu
    Gả con xuống biển mù mù tăm tăm
    Cha mẹ nàng đòi đi một trăm
    Anh đi chín chục mười lăm quan nòi
    Trong hộp có đôi bông tai
    Đem xuống thợ bạc đổ hai đôi vòng
    Anh thương em phải nói cho xong
    Kẻo bún em nguội kẻo lòng em thiu
    Lòng em thiu đem về hòa giấm
    Cau lòng tôm chẻ tấm phơi khô
    Đố em giỏi dám lấy chồng mô
    Lại đây qua kể công đồ cho mà nghe.

    Dị bản

    • Cha mẹ nàng muốn ăn cá thu
      Bắt anh đánh lưới mù mù tăm tăm.
      Cha mẹ nàng đòi lễ một trăm,
      Anh đi chín chục mười lăm quan ngoài.
      Cha mẹ nàng đòi bông tai,
      Anh ra thợ bạc làm hai đôi vòng.

  • Mồng năm chợ Ó

    Mồng năm chợ Ó
    Quan họ dồn về
    Hội vui lắm lắm
    Chưa kịp đi tắm
    Chưa kịp gội đầu
    Trầu chửa kịp têm
    Cau chưa kịp bổ
    Miếng lành, miếng sổ
    Miếng lại quên vôi
    Người có yêu tôi
    Thì người cầm lấy
    Các anh đứng đấy
    Thầy mẹ đứng đâu?
    Mời lại xơi trầu
    Mừng cho dâu mới
    Mặt trời đã tối
    Đám hội đã tàn
    Ai có hồng nhan
    Mang ra chơi hội
    Dưới sông múa rối
    Trên bãi trồng vừng
    Một đấu, một thưng
    Bằng nhau như tiện
    Như tiện như tề
    Kẻo thế gian chê
    Chồng cao vợ thấp!

Chú thích

  1. Lính mộ
    Lính được chiêu mộ. Từ này thường dùng để chỉ những người bị thực dân Pháp gọi (mộ) đi lính trước đây.

    Lính khố đỏ.

    Lính khố đỏ.

  2. Đà Nẵng
    Tên thành phố thuộc Nam Trung Bộ, trước đây thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Nguồn gốc từ "Đà Nẵng" là biến dạng của từ Chăm cổ Daknan, nghĩa là "vùng nước rộng lớn" hay "sông lớn", "cửa sông cái" vì thành phố nằm bên bờ sông Hàn. Dưới thời nhà Nguyễn, Đà Nẵng có tên là Cửa Hàn, là thương cảng lớn nhất miền Trung. Cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu chính tại thành phố này.

    Hiện nay Đà Nẵng là một thành phố hiện đại, trong lành, có tiềm năng du lịch rất lớn, và được xem là thành phố đáng sống nhất Việt Nam.

    Bến sông Hàn ngày xưa

    Bến sông Hàn ngày xưa

    Cầu sông Hàn, một trong những biểu tượng của Đà Nẵng

    Cầu sông Hàn, một trong những biểu tượng của Đà Nẵng

  3. Hương
    Tên gọi chung của một số chức tước ở cấp xã dưới thời Nguyễn, ví dụ hương chánh làm nhiệm vụ thu thuế, chi xuất, phân công sai phái, hương quản chuyên trách giữ gìn an ninh trật tự, kiểm tra nhân khẩu, hương thân làm nhiệm vụ giáo hóa thuần phong mỹ tục...
  4. Người có chức vị trong làng xã ngày xưa.
  5. Rày
    Nay, bây giờ (phương ngữ).
  6. Đậu
    Đủ, đúng.
  7. Răng
    Sao (phương ngữ Trung Bộ).
  8. Tây tà
    Có ý riêng tư (tây) và không ngay thẳng (tà).
  9. Ông Cầu bà Quán
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Ông Cầu bà Quán, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  10. Nỏ mồm
    Lắm lời và lớn tiếng, thường hay cãi lại người khác.
  11. Khoai từ
    Loại khoai thuộc họ củ nâu. Ở Việt Nam, loại có gai phân bố ở Phú Quốc, loại không gai phân bố rộng rãi, ngoài ra còn có củ từ nước mọc ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Khoai từ thường dùng làm lương thực, thực phẩm và là một vị thuốc với nhiều công dụng.

    Khoai từ luộc

    Khoai từ luộc

  12. Khoai môn
    Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo.

    Cây và củ khoai môn

    Cây và củ khoai môn

  13. Ngã nắng
    Hiện tượng kiệt sức, ra nhiều mồ hôi, thở nhanh, có thể ảnh hưởng đến tính mạng do ở lâu ngoài nắng.
  14. Hờn cơm
    Hờn dỗi, bỏ bữa ăn. Cũng gọi là dỗi cơm.
  15. Cắn chắt
    Cắn ăn hạt lúa (cho vui miệng hoặc đỡ đói).

    Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt
    cười lia dăm hạt cốm
    giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân

    (Người không về - Hoàng Cầm)

  16. Khoai lang
    Một loại cây nông nghiệp với rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột, có vị ngọt, gọi là củ khoai lang. Nhân dân ta trồng và sử dụng khoai lang làm lương thực, tận dụng cả phần củ (rễ), thân, và lá.

    Thu hoạch khoai lang

    Thu hoạch khoai lang

  17. Phân
    Nói cho rõ, bày tỏ.
  18. Ôm cầm
    Ôm đàn, trong văn chương thường được dùng để chỉ việc phụ nữ lấy chồng, tái giá, hoặc bỏ chồng cũ lấy chồng mới. Các thành ngữ ôm cầm thuyền ai, ôm đàn qua thuyền được cho là xuất phát từ lời thề nguyền chung thủy của nàng Kiều Oanh trong Thiên Hương Tập, khi nàng nói với chồng rằng: Thiếp đã đem thân theo chàng, dẫu nát ngọc chìm châu, cũng không ôm đàn tỳ bà qua thuyền khác.
  19. Châu
    Nước mắt. Người xưa ví nước mắt như giọt châu (ngọc).

    Giọt châu lã chã khôn cầm
    Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương

    (Truyện Kiều)

  20. Tài bàn
    Một trò chơi dân gian có xuất xứ từ Trung Quốc. Cách chơi tài bàn tương tự như chơi tổ tôm, tuy nhiên chỉ chơi ba người, khác với tổ tôm chơi năm người.
  21. Can trường
    Cũng đọc là can tràng, nghĩa đen là gan (can) và ruột (trường), nghĩa bóng chỉ nỗi lòng, tâm tình.

    Chút riêng chọn đá thử vàng,
    Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?

    (Truyện Kiều)

  22. Chi
    Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  23. Vắn
    Ngắn (từ cổ).

    Tự biệt nhiều lời so vắn giấy
    Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền

    (Bỏ vợ lẽ cảm tác - Nguyễn Công Trứ)

  24. Đài bi
    Hay đại bi, còn có tên khác là từ bi xanh, đại ngải, bơ nạt, phặc phả (Tày), co nát (Thái), là loại cây nhỏ, toàn thân và quả có lông mềm và tinh dầu thơm. Cụm hoa hình ngù ở nách lá hay ở ngọn, gồm nhiều đầu, trong mỗi đầu có nhiều hoa màu vàng. Cây đại bi có vị cay và đắng, mùi thơm nóng, tính ấm, được dùng làm vị thuốc chữa một số bệnh ngoài da.

    Hoa đài bi

    Hoa đài bi

  25. Rựa quéo
    Thứ rựa nhỏ, cán dài, lưỡi cong, mũi nhọn.
  26. Núi Quẹo
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Núi Quẹo, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  27. Quèo
    Khều, móc (phương ngữ Trung Bộ).
  28. Nhum
    Cũng gọi là cầu gai, một loại động vật thân mềm, có gai vỏ dài, sống ở những gành đá ven bờ biển nước ấm, lẫn trong rong rêu. Thịt nhum có thể ăn tươi, kho ăn với cơm, trộn trứng chưng cách thủy, nhưng ngon nhất là làm mắm. Mắm nhum sền sệt, mầu đỏ đục, thơm lựng, từng là đặc sản tiến vua xưa của người dân Quảng Ngãi.

    Con nhum

    Con nhum

  29. Chun lòn
    Chun: chui. Lòn: luồn (cả hai đều là phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  30. Cao Lãnh
    Thành phố đồng thời là tỉnh lị của tỉnh Đồng Tháp. Cao Lãnh cũng là tên một huyện của tỉnh Đồng Tháp, cách thành phố Cao Lãnh 8 km về hướng Đông-Nam.
  31. Cà Mau
    Tỉnh ven biển ở cực Nam nước ta, nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Cà Mau là một vùng đất trẻ, mới được khai phá khoảng trên 300 năm. Tên gọi Cà Mau có gốc từ tiếng Khmer “Tưk Kha-mau” có nghĩa là nước đen - màu nước đặc trưng ở đây là màu đen do lá tràm của thảm rừng tràm U Minh rụng xuống. Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác mọc tự nhiên và hoang dã, hệ thống sông ngòi chằng chịt, và có nguồn dự trữ sinh thái phong phú.

    Phong cảnh Cà Mau

    Phong cảnh Cà Mau

  32. Rạch Giá
    Địa danh nay là thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang. Có ý kiến cho rằng tên "Rạch Giá" có nguồn gốc từ việc vùng đất này có rất nhiều cây giá mọc hai bên bờ rạch. Vào thời vua Gia Long, Rạch Giá là một vùng đất chưa khai khẩn, còn hoang vu, dân cư thưa thớt, chủ yếu là người Khmer. Dưới thời kháng chiến chống Pháp, Rạch Giá là căn cứ địa của người anh hùng Nguyễn Trung Trực. Thành phố Rạch Giá ngày nay có nhiều lợi thế về giao thông đường thủy, đường biển, đường bộ và đường hàng không nhằm kết nối với các trung tâm lớn trong nước và khu vực Đông Nam Á.
  33. Giạ
    Đồ đong lúa đan bằng tre (có chỗ ghép bằng gỗ), giống cái thúng sâu lòng, thường đựng từ 10 ô trở lại, thường thấy ở miền Trung và Nam (Đại Nam quấc âm tự vị - Huình Tịnh Của). Một giạ ta tùy địa phương lại có giá trị khác nhau, từ 32 cho tới 45 lít, giạ tây (thời Pháp đô hộ) chứa 40 lít. Đến giữa thế kỉ 20 xuất hiện loại giạ thùng được gò bằng tôn, chứa 40 lít.

    Giạ đong lúa

    Giạ đong lúa bằng gỗ

  34. Cắc
    Cách người Nam Bộ gọi đồng hào. Theo học giả An Chi, đây là biến âm của 角 giác, nghĩa là hào.
  35. Tứ sắc
    Tên một trò chơi bài lá phổ biến ở Trung và Nam Bộ. Bộ bài tứ sắc có 28 lá khác nhau, chia thành 4 màu (đỏ, vàng, xanh, trắng) và 7 cấp bậc: Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt.

    Bài tứ sắc

    Bài tứ sắc

  36. Trà Vinh
    Tên một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long, có kho tàng văn hoá đa dạng, đặc biệt là văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer: chữ viết, lễ hội, đền chùa... Tại đây cũng có nhiều đặc sản như cốm dẹp trộn dừa kiểu Khmer; các món đuông như đuông chà là, đuông đất và đuông dừa; mắm rươi; rượu Xuân Thạnh, bánh tét, bánh tráng ba xe, mắm kho, bún nước lèo...

    Chùa Kompong Ksan tại Trà Vinh

    Chùa Kompong Ksan tại Trà Vinh

    Bún nước lèo - đặc sản Trà Vinh

    Bún nước lèo - đặc sản Trà Vinh

  37. Trà Bang
    Một địa danh nay thuộc huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng.
  38. Hường
    Hồng (phương ngữ Nam Bộ). Từ này được đọc trại ra do kị húy tên vua Tự Đực là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm.
  39. Chữ đồng
    Từ cụm từ Hán Việt "đồng tâm đái," hoặc "dải đồng," chỉ sợi thắt lưng ngày xưa có hai dải lụa buộc lại với nhau. Văn chương cổ dùng từ "chữ đồng" hoặc "đạo đồng" để chỉ sự kết nguyền chung thủy của vợ chồng.

    Đã nguyền hai chữ đồng tâm
    Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai

    (Truyện Kiều)

  40. Cồn
    Đảo nhỏ và thấp. Ở miền Trung và Nam Bộ, cồn còn được gọi là cù lao hoặc bãi giữa, là dải đất hình thành ở giữa các con sông lớn (sông cái) nhờ quá trình bồi đắp phù sa lâu năm.

    Cồn Phụng (thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang)

    Cồn Phụng (thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang)

  41. Cá sặc
    Một loại cá đồng, có rất nhiều ở vùng Tây Nam Bộ vào mùa nước nổi. Người dân Nam Bộ thường đánh bắt cá sặc để làm khô cá, mắm sặc, hoặc nấu thành nhiều món ăn ngon như gỏi, cháo, canh chua bông súng...

    Khô cá sặc

    Khô cá sặc

  42. Cá rô
    Loại cá rất thường gặp trên các đồng ruộng ở nước ta. Nhân dân ta thường tát đồng để bắt cá rô. Cá rô đồng có thịt béo, thơm, dai, ngon, dù hơi nhiều xương, và được chế biến thành nhiều món ngon như kho, nấu canh, làm bún...

    Lưu ý: Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng.

    Cá rô đồng kho tộ

    Cá rô đồng kho tộ

  43. Đào
    Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, cũng được trồng để lấy quả hay hoa. Hoa đào nở vào mùa xuân, là biểu tượng của mùa xuân và ngày Tết ở miền Bắc. Quả đào vị ngọt hoặc chua, mùi thơm, vỏ quả phủ một lớp lông mịn. Đào xuất hiện rất nhiều trong văn học cổ Trung Quốc và các nước đồng văn. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.

    Quả đào

    Quả đào

  44. Thục nữ
    Người con gái hiền dịu, nết na (từ Hán Việt).
  45. Tri kỉ
    Người thân thiết, hiểu rõ mình, từ chữ tri (biết) và kỉ (mình).
  46. Bõ công
    Đáng công.
  47. Chửa
    Chưa (từ cổ, phương ngữ).
  48. Mưa ngâu
    Tên gọi cho những cơn mưa xuất hiện vào đầu tháng 7 âm lịch hằng năm. Trong dân gian có câu thành ngữ Vào mùng 3, ra mùng 7, nghĩa là mưa sẽ có vào các ngày mùng 3 đến mùng 7, 13 đến 17 và 23 đến 27 âm lịch. Các cơn mưa thường không liên tục, rả rích. Tên mưa gắn với truyền thuyết Ngưu Lang - Chức Nữ.
  49. Mưa rươi
    Mưa nhỏ và rất ngắn, thường có vào cuối mùa mưa ở miền Bắc, vào khoảng tháng chín âm lịch, trùng với mùa có rươi ở vùng biển.
  50. Cúp đầu
    Cắt tóc. Xem Cúp.
  51. Rau tập tàng
    Các loại rau trộn lẫn với nhau, mỗi loại một ít, thường dùng để nấu canh. Có nơi gọi là rau vặt.

    Rau tập tàng

    Rau tập tàng

  52. Ống bơ
    Vỏ lon đồ hộp. Trước dân ta hay dùng vỏ lon sữa đặc để đong gạo.

    Ống bơ

    Ống bơ

  53. Đây thật ra là một bài thơ của tác giả Mai Anh, nhưng một số câu trong bài đã phố biến thành ca dao thời kì bao cấp, xin đăng lên đây cho bạn đọc tham khảo.
  54. Họ
    Những người thuộc đàng trai (hoặc đàng gái) trong đám cưới. Cũng gọi là họ nhà trai, họ nhà gái.
  55. Gò Găng
    Một địa danh nay thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Tại đây có nghề làm nón truyền thống, đồng thời có phiên chợ nón Gò Găng rất độc đáo, họp từ nửa đêm đến rạng sáng. Nón làm ở chợ Găng ngày xưa chủ yếu là nón ngựa.

    Chợ nón Gò Găng

    Chợ nón Gò Găng

  56. Nón quai thao
    Còn gọi là nón ba tầm, nón thúng, một loại nón xưa của phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ. Nón làm bằng lá gồi hoặc lá cọ, mặt nón rộng 70 - 80 cm, hình bánh xe, đỉnh bằng, có vành cao độ 10 - 12 cm. Mặt dưới nón gắn một vành tròn vừa đầu người đội, gọi là khua. Quai nón dài, khi đội thì thả võng đến thắt lưng, người đội dùng tay giữ quai. Quai nón làm bằng từ một 1 tới 8 dây thao đen kết bằng tơ, chỉ, ngoài bọc tơ dệt liên tục. Đời nhà Trần, nón này được cải tiến cho cung nữ đội và gọi là nón thượng.

    Phụ nữ Hà Nội đội nón quai thao (đầu thế kỉ 20).

    Phụ nữ Hà Nội đội nón quai thao (đầu thế kỉ 20).

  57. Huyền
    Màu đen (từ Hán Việt).
  58. Nhiễu
    Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát.
  59. Thiên hạ
    Toàn bộ mọi vật, mọi người. Đây là một khái niệm có gốc từ Trung Quốc (thiên 天 (trời) hạ 下 (ở dưới), nghĩa đen là "dưới gầm trời").

    "Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ." (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân)

  60. Ngó
    Nhìn, trông (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  61. Đào, kép
    Vai diễn trong một vở tuồng, chèo, cải lương... Đào là vai nữ, kép là vai nam. Cô dâu, chú rể trong đám cưới đôi khi cũng gọi là đào kép.

    Thanh Nga, nữ nghệ sĩ cải lương nổi tiếng của Nam Việt Nam vào những năm 70 của thế kỉ 20

    Thanh Nga, nữ nghệ sĩ cải lương nổi tiếng của Nam Việt Nam vào những năm 70 của thế kỉ 20

  62. Có bản chép: Đầu làng con chó sủa dai.
  63. Nguyệt sơn đài
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Nguyệt sơn đài, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  64. Nguyệt Lão
    Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.

    Ông Tơ Nguyệt

    Ông Tơ Nguyệt

  65. Quỳnh tương
    Lấy từ Quỳnh tương ngọc dịch. Quỳnh là ngọc đẹp, còn tươngdịch là cách gọi chất lỏng. Thành ngữ này có nghĩa là "rượu làm bằng ngọc đẹp." Người xưa cho rằng rượu làm từ ngọc ra mà uống thì có thể thành tiên. Quỳnh tương vì thế chỉ loại rượu rất quý.

    Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp
    Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân

    (Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến)

  66. Cá thu
    Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon.

    Cá thu

    Cá thu

  67. Quan
    Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta dùng đến đầu thế kỷ 20. Đối với tiền quý (cổ tiền), một quan bằng 60 tiền (600 đồng kẽm). Với tiền gián (sử tiền), một quan bằng 360 đồng kẽm.
  68. Xuân Ổ
    Tên Nôm là làng Ó, một làng nay là hai thôn Xuân Ổ A và Xuân Ổ B thuộc phường Bắc Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, xưa thuộc tổng Khắc Niệm, huyện Tiên Du. Hằng năm vào mồng 5 Tết, làng mở hội thờ cúng Thành hoàng và hát quan họ. Chợ làng trước đây gọi là chợ Ó, nay không còn. Trước ngày vào đám, chập tối ngày mùng 4, làng nhóm họp chợ phiên. Phiên chợ Ó vừa tan, nhiều quán trầu của các cụ bà mọc lên, theo đó ''liền anh, liền chị'' mời nhau vào ngồi xơi trầu, rồi bắt đầu cuộc hát (xem thêm).
  69. Quan họ
    Lối hát dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung ở vùng văn hóa Kinh Bắc, tức tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Quan họ được chia làm hai loại: Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe, đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ, không có nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội ở các làng quê. Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ," có nhiều hình thức biểu diễn phong phú hơn, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa, được biểu diễn trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội...

    Năm 2009, cùng đợt với ca trù, quan họ được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế và không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.

    Giã bạn - Người ơi người ở đừng về - Đến hẹn lại lên (Quan họ Bắc Ninh)

  70. Má hồng
    Từ chữ hồng nhan (cũng nói là hường nhan ở Nam Bộ), từ dùng trong văn thơ cổ chỉ người con gái đẹp.

    Phận hồng nhan có mong manh
    Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương

    (Truyện Kiều)

  71. Đấu
    Đồ dùng để đong thóc gạo ngày trước, bằng khoảng một lít hiện nay.
  72. Thưng
    Đồ đo lường, bằng một phần mười cái đấu ("thưng" do chữ "thăng" 升 đọc trạnh ra).

    Thưng bằng đồng

    Thưng bằng đồng

  73. Tiện
    Gọt vòng quanh cho đứt hoặc tạo thành khía.
  74. Tề
    Cắt bớt.