Tìm kiếm "Ba mẹ"

  • Vè con cút

    Nghe vẻ nghe ve
    Nghe vè con cút
    Trâu ăn mấy chút
    Bắt mẹ tôi đền
    Nắm chóp tôi lên
    Đau đầu cha chả
    Chạy mời Trùm Xã,
    Lại có Trưởng Đông
    Trâu ăn ngoài đồng
    Bắt vô mà cột
    Mâm trầu cho tốt
    Hũ rượu cho ngon
    Phải trâu của con
    Thì con bắt lấy

  • Em là thân phận nữ nhi

    Em là thân phận nữ nhi
    Thầy mẹ thách cưới làm chi bẽ bàng
    Tiền thời chín hũ lồng quang
    Cau non trăm thúng họ hàng ăn chơi
    Vòng vàng kéo đủ mười đôi
    Nhẫn ba trăm chiếc, tiền thời mười quan
    Còn bao của hỏi của han
    Của mất tiền cưới của mang ta về
    Cưới ta trăm ngỗng nghìn dê
    Trăm ngan nghìn phượng ta về làm dâu
    Cưới ta chín chục con trâu
    Ba trăm con lợn đưa dâu về nhà
    Chàng về nhắn nhủ mẹ cha
    Mua tre tiện đốt làm nhà ở riêng
    Chàng về nhắn nhủ láng giềng
    Quét cổng quét ngõ, ra giêng ta về
    Ta về ta chẳng về không
    Voi thì đi trước ngựa hồng theo sau
    Ba bà cầm quạt theo hầu
    Mười tám người hầu đi đủ thì thôi

  • Em chưa có chồng chân rời tay rảnh

    Em chưa có chồng chân rời tay rảnh
    Em có chồng rồi một cảnh hai quê
    Nói ra cam khổ nhiều bề bạn ơi
    Phải răng chịu rứa cho rồi
    Gạo trút vô nồi không lẽ trút ra
    Xưa kia quyền mẹ với cha
    Bây giờ có lẽ người ta nắm quyền
    Vợ với chồng là nghĩa bá niên
    Bạn biểu ta phân chiếc đũa, đồng tiền sao nên

  • Em là con gái nhà giàu

    Em là con gái nhà giàu
    Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao
    Cưới em trăm tấm gấm đào
    Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời
    Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi
    Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng
    Sắm xe tứ mã đem sang
    Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu
    Ba trăm nón Nghệ đội đầu
    Một người một cái quạt Tàu thật xinh
    Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình
    May chăn cho rộng ta mình đắp chung
    Cưới em chín chĩnh mật ong
    Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò
    Cưới em tám vạn trâu bò
    Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
    Lá đa mặt nguyệt hôm rằm
    Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi
    Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi
    Xin chàng chín chục con dơi góa chồng
    Thách thế mới thỏa trong lòng
    Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân

  • Nàng về giã gạo ba trăng

    Nàng về giã gạo ba trăng
    Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm
    Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo
    Anh biết em liệu có được chăng
    Trần trần như Cuội cung trăng
    Biết rằng cha mẹ có bằng lòng không?
    Để anh chờ đợi luống công
    Trước sau anh vẫn một lòng yêu em

  • Ví dầu tình bậu muốn thôi

    Ví dầu tình bậu muốn thôi
    Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
    Bậu ra cho khỏi tay ta
    Cái xương bậu nát, cái da bậu mềm

    Dị bản

    • Ví dầu tình bậu muốn thôi
      Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
      Bậu ra, bậu lấy ăn mày
      Nước sông gạo chợ, ngày rày khỏi lo!

    • Ví dầu tình bậu muốn thôi
      Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
      Bậu ra bậu lấy quan ba
      Ta cầm bậu lại quét nhà nấu cơm

    • Ví dầu tình bậu muốn thôi
      Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
      Bậu ra bậu lấy ông câu
      Bậu câu cá bống, chặt đầu kho tiêu
      Kho tiêu, kho ớt, kho hành
      Kho ba lượng thịt để dành mà ăn

  • Viết thư sang hỏi thăm chàng

    Viết thư sang hỏi thăm chàng
    Còn không hay đã đá vàng nơi nao?
    Hay là mắc phải con nào
    Bùa yêu bả lú phải làm sao cho tỏ tường
    Vắng chàng tôi những nhớ thương
    Vì chàng mê gái tìm đường phụ tôi
    Tôi làm cho lứa quên đôi
    Tôi làm cho rã cho rời nhau ra
    Làm cho tan nát biệt xa
    Cho chim lìa tổ, cho hoa lìa cành
    Tôi làm cho nó lìa anh
    Cho người ta biết anh tình phụ tôi

  • Ru em em théc cho muồi

    Ru em em théc cho muồi
    Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
    Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
    Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh
    Chợ Dinh bán áo con trai
    Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim

    Dị bản

    • Bồng em mà bỏ vô nôi
      Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
      Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
      Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh
      Chợ Dinh bán nón quan hai
      Bán thao quan mốt, bán quai năm tiền

    Video

  • Mở lời chào gió, chào trăng

    – Mở lời chào gió, chào trăng
    Chào quanh Núi Chúa, chào băng Sông Trà
    Mở lời chào chị em ta
    Bên hữu đàn bà bên tả đàn ông
    Mở lời chào gái nữ công
    Chào trai tiết hạnh giữa đám đông hội này
    – Khoan khoan bớ bạn khoan chào
    Lại đây ta hỏi người nào biết ta
    Từ khi cha mẹ sinh ra
    Tự lớn chí nhỏ, bạn ta mấy lần
    Xưng rằng bạn cựu bạn tân
    Lại đây ta hỏi mới giao lân kết nguyền

  • Ớ cô đội nón ba tầm

    Ớ cô đội nón ba tầm
    Chồng cô đi lính, cô nằm với ai
    Chín tháng cô đẻ con trai
    Chồng cô về hỏi: Con ai thế này?
    – Con tôi đi kiếm về đây
    Có cho nó gọi bằng thầy thì cho
    Không cho tôi mang xuống đò
    Ai xin thằng bé tôi cho đây này
    Có mẹ mà chẳng có thầy
    Lấy ai may áo cho mày, cu ơi!

  • Vè chàng Lía

    Lía ta nổi tiếng anh hào
    Sơn hà một góc thiếu nào người hay
    Bạc tiền thừa đủ một hai
    Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
    Làm cho bốn biển anh hùng
    Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
    Kẻ nào tàn ác lâu nay
    Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
    Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
    Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
    Nhất nhì những bực nhà quan
    Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
    Nhà nào nhiều bạc dư tiền
    Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
    Tuy chàng ở chốn non đầu
    Nhưng mà lương thực vật nào lại không
    Lâu la ngày một tụ đông
    Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
    Mọi người trên dưới trong ngoài
    Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
    Tiếng tăm về đến trào đàng
    Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
    Nam triều chúa ngự ngai vàng
    Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
    Có quan ngự sử bày phô
    Tâu lên vua rõ lai do sự tình
    Đem việc chàng Lía chiêu binh
    Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
    Nào khi Lía phá xóm làng
    Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
    Kể tên những bậc phú hào
    Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
    Vua ngồi nghe rõ một hai,
    Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
    – Dè đâu có đứa gian tà
    Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
    Truyền cho mười vạn binh hùng
    Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
    Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
    Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
    Gập ghềnh bao quản núi non
    Dậy trời sát khí quân bon lên rừng.

  • Con gái bảy nghề

    Thì la thì lảy,
    Con gái bảy nghề,
    Ngồi lê là một,
    Dựa cột là hai,
    Theo trai là ba,
    Ăn quà là bốn,
    Trốn việc là năm,
    Hay nằm là sáu,
    Láu táu là bảy.

  • Lĩnh lương còn được năm hào

    Lĩnh lương còn được năm hào
    Ba hào đong gạo, thuốc lào vài xu
    Một xu thìa mắm tôm khô
    Một hào cá ót, một xu tỏi hành
    Hai xu rau diếp rau răm
    Ba xu mua chén muối vừng về rang
    Thế là được bữa cơm sang
    Có canh rau muống, vừng rang đủ mùi
    Còn con được một xu xôi
    Vợ trầu với thuốc, ngày mai đi mần
    Nói ra chẳng bõ tủi thân
    Một tháng một lần được một bữa no
    Đem ngủ lán dột nằm co
    Ngày ngày chui rúc trong lò tối tăm
    Bỏ về thì chẳng có ăn
    Vợ con đói khổ biết lần vào đâu…

  • Vè phu làm đường lên Tam Đảo

    Tôi có nhời thăm u cùng bá
    Ở trên này khổ quá u ơi
    Khi nào thong thả mát giời
    Mời u quá bộ lên chơi vài ngày
    Làm kíp chả được tiền ngay
    Phải ăn gạo ngữ của thầy cai Sơn
    Một đồng mười sáu bơ đơn
    Đong đi đong lại chỉ còn mười lăm
    Thầy cai cứ đứng chăm chăm
    Hễ ai hút thuốc lại nhằm cắt công
    Trời mưa có thấu hay không
    Quanh năm chẳng có một đồng thừa ra
    Lấy gì đồng bánh, đồng quà
    Lấy gì mà gửi về nhà nuôi con
    Mười năm làm ở đỉnh non
    Ở nhà cha mẹ vợ con mất nhờ
    Thân tôi khổ đến bao giờ?

Chú thích

  1. Cha chả
    Thán từ dùng để biểu lộ sự ngạc nhiên (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  2. Trùm
    Người đứng đầu một phường hội thời xưa.

    Nghệ sĩ Minh Nhí trong vai trùm Sò (áo the xanh) trong vở cải lương Ngao Sò Ốc Hến

    Nghệ sĩ Minh Nhí trong vai trùm Sò (áo the xanh) trong vở cải lương Ngao Sò Ốc Hến

  3. Có bản chép: Tôi lại cửa công.
  4. Nữ nhi
    Con gái nói chung.
  5. Quan
    Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta dùng đến đầu thế kỷ 20. Đối với tiền quý (cổ tiền), một quan bằng 60 tiền (600 đồng kẽm). Với tiền gián (sử tiền), một quan bằng 360 đồng kẽm.
  6. Phượng hoàng
    Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.

    Một hình vẽ chim phượng hoàng

    Một hình vẽ chim phượng hoàng

  7. Trai (gái) tơ
    Trai gái mới lớn, chưa có vợ có chồng.
  8. Nạ dòng
    Người phụ nữ đã có con, đứng tuổi. Từ này thường dùng với nghĩa chê bai. Có nơi phát âm thành lại dòng.

    Theo học giả An Chi, nạ là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 女 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là "nữ" còn âm xưa chính là "nạ," có nghĩa là "đàn bà," "mẹ"... còn dòng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 庸 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là "dung" còn âm xưa chính là "dòng," có nghĩa gốc là hèn mọn, tầm thường, yếu kém, mệt mỏi... rồi mới có nghĩa phái sinh là không còn nhanh nhẹn, gọn gàng vì đã luống tuổi, nhất là đối với những người đã có nhiều con.

  9. Căn nợ
    Món nợ nần của đôi trai gái từ kiếp trước phải trả trong kiếp này, theo giáo lí nhà Phật.
  10. Nguyệt Lão
    Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.

    Ông Tơ Nguyệt

    Ông Tơ Nguyệt

  11. Tàu
    Cách nhân dân ta gọi nước Trung Quốc hay người Trung Quốc (người Hoa), thường có ý khinh miệt. Theo học giả An Chi, chữ này có gốc từ tào 曹 (quan lại). Bác sĩ Trần Ngọc Ninh giảng là do chữ Tào là họ cuả Ngụy Tào Tháo. Lại có tên Ba Tàu, đến nay vẫn chưa thống nhất nguồn gốc của tên này.
  12. Chệch
    Từ gọi một cách bình dân, thiếu tôn trọng dành cho người Hoa sinh sống ở nước ta. Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ từ a chệch, cách người Triều Châu (một vùng ở Trung Quốc) gọi chú (em của bố). Hiện nay từ này hay bị viết và đọc nhầm là chệt hoặc chệc. Ở miền Bắc, từ này có một biến thể là chú Chiệc.
  13. Răng
    Sao (phương ngữ Trung Bộ).
  14. Rứa
    Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
  15. Bá niên
    Trăm năm (từ Hán Việt).
  16. Gấm
    Một loại vải dệt từ tơ tằm có nền dày, bóng. Nền gấm thường có hoa văn hay chữ Hán với màu sắc sặc sỡ bằng kim tuyến, ngân tuyến được dệt như thêu. Một tấm gấm thường có nhiều màu, phổ biến là năm màu hay bảy màu, gọi là gấm ngũ thể hay thất thể. Do sợi ngang (tạo hoa nổi lên trên) và sợi dọc (tạo nền chìm ở dưới) đều được nhuộm màu nên khi dưới những góc nhìn khác nhau, gấm sẽ có nhiều màu sắc khác nhau. Gấm có vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ nên ngày xưa chỉ dành may y phục của vua chúa và quan lại, thường dân không được dùng.

    Gấm

    Gấm

  17. Tráp
    Đồ dùng hình hộp nhỏ bằng gỗ, thời trước dùng để đựng các vật nhỏ hay giấy tờ, trầu cau. Ở miền Trung, từ này cũng được phát âm thành trắp.

    Cái tráp

    Cái tráp

  18. Thuốc xỉa
    Một nhúm thuốc lào được ngậm bằng môi trên trong lúc ăn trầu để tẩy cổ trầu (nước bọt có màu hồng) và xác trầu bám vào răng. Động tác bỏ thuốc xỉa vào miệng gọi là xỉa thuốc.
  19. Bình vôi
    Ngày xưa nhân dân ta thường hay ăn trầu với cau và vôi. Bình vôi là dụng cụ bằng gốm hay kim loại để đựng vôi ăn trầu, đôi khi được chế tác rất tinh xảo, và tùy theo hình dạng mà cũng gọi là ống vôi.

    Bình vôi bằng gốm làng Dưỡng Động (Hải Phòng)

    Bình vôi bằng gốm làng Dưỡng Động (Hải Phòng)

  20. Xe tứ mã
    Xe bốn ngựa kéo.
  21. Quan viên
    (Kiểu cách) quan khách, những người tham dự cuộc vui nói chung.
  22. Nón Nghệ
    Thứ nón tốt xưa làm tại Nghệ An.
  23. Nhiễu
    Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát.
  24. Chĩnh
    Đồ đựng bằng sành hoặc đất nung, miệng hơi thu lại, đáy thót, nhỏ hơn chum. Xem thêm Cái chum
  25. Cót
    Đồ đựng được làm bằng tấm cót đan từ những nan tre nứa mỏng đan chéo và khít vào nhau, quây kín, đặt trên một cái nong.

    Đan cót

    Đan cót

  26. Nong
    Dụng cụ hình tròn, đan bằng tre, có vành, đáy nông, thường dùng để phơi nông sản hoặc để nuôi tằm. Có vùng gọi là nống. Nhỏ hơn nong một chút gọi là nia.

    Nong, nia, thúng

    Nong, nia, thúng

  27. Xôi vò
    Xôi nấu rồi trộn đều với đậu xanh chín giã nhỏ.

    Xôi vò

    Xôi vò

  28. Hũ lớn làm bằng sành sứ, thường để đựng nước uống, rượu.

    Cái vò

    Cái vò

  29. Cuội
    Một nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam. Chú Cuội (hay thằng Cuội) là một người tiều phu. Cuội có một cây đa thần, lá có khả năng cải tử hoàn sinh. Một hôm vợ Cuội tưới nước bẩn vào gốc cây đa, cây đa trốc gốc bay lên trời. Cuội bám vào rễ đa kéo lại, nhưng cây đa bay lên đến tận cung Trăng. Từ đó trên cung Trăng có hình chú Cuội. (Xem thêm: Sự tích chú Cuội cung trăng).
  30. Thiên Lôi
    Vị thần có nhiệm vụ làm ra sấm sét theo tưởng tượng của người xưa. Thiên Lôi thường được khắc họa là một vị thần tính tình nóng nảy, mặt mũi đen đúa dữ tợn, tay cầm lưỡi búa (gọi là lưỡi tầm sét). Trong văn hóa Việt Nam, Thiên Lôi còn được gọi là ông Sấm, thần Sấm, hoặc thần Sét.
  31. Bông
    Hoa tai (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Thường đi chung với "đôi" thành "đôi bông."
  32. Bá tòng
    Cây bá (trắc) và cây tùng, hai loại cây sống rất lâu năm. Bá tòng vì thế tượng trưng cho tình nghĩa lâu bền. Đồng thời bá tòng cũng chỉ sự tu hành, vì hai loại cây này thường được trồng ở sân chùa.
  33. Lúa Ba Trăng
    Một giống lúa cổ ở nước ta, thời xưa được trồng nhiều ở Nghệ An, từ lúc gieo mạ tới lúc lúa chín vừa vặn ba tháng. Lúa Ba Trăng cho gạo trắng, cơm dẻo, nhiều bột. (Theo Vân Đài Loại Ngữ, Lê Quý Đôn).
  34. Cao Bằng
    Một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc nước ta, có núi, rừng, sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ. Cao Bằng nổi tiếng với thắng cảnh thác Bản Giốc. Ngoài ra, nơi đây còn có các khu du lịch nổi tiếng khác như Động Ngườm Ngao hay hồ núi Thang Hen. Vì là vùng đất biên giới nên xưa kia các triều đại phong kiến nước ta luôn cho quân lính đồn trú tại Cao Bằng (gọi là trấn thủ lưu đồn).

    Thác Bản Giốc

    Thác Bản Giốc

  35. Ví dầu
    Nếu mà, nhược bằng (từ cổ). Cũng nói là ví dù.
  36. Bậu
    Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
  37. Có bản chép: mòn.
  38. Quan ba
    Tên gọi thời Pháp thuộc của cấp hàm đại úy (capitaine) Gọi vậy vì quân hàm này có 3 vạch.
  39. Cá bống
    Một họ cá sông rất quen thuộc ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam (tại đây loài cá này cũng được gọi là cá bóng). Cá bống sống thành đàn, thường vùi mình xuống bùn. Họ Cá bống thật ra là có nhiều loài. Tỉnh Quảng Ngãi ở miền Trung nước ta có loài cá bống sông Trà nổi tiếng, trong khi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, loài được nhắc tới nhiều nhất là cá bống tượng. Cá bống được chế biến thành nhiều món ăn ngon, có giá trị cao.

    Cá bống tượng Kiên Giang.

    Cá bống tượng

    Cá bống kho tộ

    Cá bống kho tộ

  40. Cậy
    Ỷ vào sức mạnh, quyền thế hay tiền bạc.
  41. Làm mai
    Còn gọi là làm mối, mai mối. Người làm mai gọi là ông (bà) mối hay ông (bà) mai, là người đứng trung gian, giới thiệu cho hai bên trai gái làm quen hoặc cưới nhau.
  42. Đá vàng
    Cũng nói là vàng đá, lấy ý từ từ Hán Việt kim thạch. Kim là kim khí để đúc chuông, đỉnh. Thạch là đá. Ngày trước, những lời vua chúa hoặc công đức của nhân vật quan trọng được khắc ghi trên bia đá hay chuông, đỉnh đồng để lưu truyền mãi mãi. Đá vàng vì thế chỉ sự chung thủy son sắt, hoặc sự lưu truyền tên tuổi mãi mãi về sau.
  43. Bả lú
    Đánh bả làm cho người khác lú lẫn, si dại.
  44. Théc cho muồi
    Ngủ cho say (phương ngữ miền Trung).
  45. Chợ Cầu
    Tên một cái chợ ở làng Phù Lương, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
  46. Nam Phổ
    Còn gọi là Nam Phố, tên một làng nay thuộc xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tại đây có một đặc sản nổi tiếng là bánh canh Nam Phổ. Trước đây ở vùng đất này cũng có nghề trồng cau truyền thống - cau Nam Phổ là một trong những sản vật tiêu biểu của Phú Xuân-Thuận Hóa ngày xưa.

    Bánh canh Nam Phổ

    Bánh canh Nam Phổ

  47. Chợ Dinh
    Còn gọi là chợ Dinh Ông, một cái chợ ở đường Chi Lăng, phường Phú Hiệp, thành phố Huế. Chợ được gọi như thế vì lúc trước vùng này có nhiều dinh thự các ông hoàng, bà chúa hay quan lớn.
  48. Triều Sơn ở Hương Trà, Mậu Tài ở Phú Vang. Tất cả các địa danh trong bài ca dao này là ở Thừa Thiên - Huế.
  49. Có bản chép: bán lim.
  50. Nón quai thao
    Còn gọi là nón ba tầm, nón thúng, một loại nón xưa của phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ. Nón làm bằng lá gồi hoặc lá cọ, mặt nón rộng 70 - 80 cm, hình bánh xe, đỉnh bằng, có vành cao độ 10 - 12 cm. Mặt dưới nón gắn một vành tròn vừa đầu người đội, gọi là khua. Quai nón dài, khi đội thì thả võng đến thắt lưng, người đội dùng tay giữ quai. Quai nón làm bằng từ một 1 tới 8 dây thao đen kết bằng tơ, chỉ, ngoài bọc tơ dệt liên tục. Đời nhà Trần, nón này được cải tiến cho cung nữ đội và gọi là nón thượng.

    Phụ nữ Hà Nội đội nón quai thao (đầu thế kỉ 20).

    Phụ nữ Hà Nội đội nón quai thao (đầu thế kỉ 20).

  51. Bà Nà - Núi Chúa
    Một dãy núi nằm ở phía tây thành phố Đà Nẵng hiện nay. Đây là dãy núi cổ, tuổi trên 400 triệu năm, nhờ những khối đá hoa cương và thạch anh bền vững nên chóp núi còn khá cao (1.487m so với mặt nước biển). Hiện nay Bà Nà - Núi Chúa là điểm đến du lịch nổi tiếng của cả miền Trung.

    Bà Nà - Núi Chúa

    Bà Nà - Núi Chúa

  52. Trà Khúc
    Tên con sông lớn nhất chảy qua các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi và đổ ra cửa Đại Cổ Lũy. Sông Trà Khúc và núi Thiên Ấn là biểu tượng của tỉnh Quảng Ngãi, còn gọi là vùng đất núi Ấn sông Trà.

    Sông Trà Khúc

    Sông Trà Khúc

  53. Giao lân
    Đi lại (giao) với hàng xóm láng giềng (lân).
  54. Thầy
    Cha, bố (phương ngữ một số địa phương Bắc và Bắc Trung Bộ).
  55. Lía
    Dân gian còn gọi là chàng Lía, chú Lía, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách thống trị của nhà Nguyễn vào thế kỉ 18 nổ ra tại Truông Mây, Bình Định. Có giả thuyết cho rằng ông tên thật là Võ Văn Doan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn). Lía tập hợp dân nghèo nổi dậy, chọn Truông Mây (Hoài Ân, Bình Định) làm căn cứ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tương truyền sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông uất ức bỏ lên núi và tự sát.
  56. Anh hào
    Anh hùng hào kiệt, người có tài năng, chí khí. Hội anh hào là dịp để anh hào gặp và thi thố lẫn nhau để lập nên những công trạng hiển hách.

    Đường đường một đấng anh hào,
    Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.

    (Truyện Kiều)

  57. Sơn hà
    Núi sông (từ Hán Việt). Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước.

    Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
    Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

    (Lý Thường Kiệt)

    Dịch thơ:

    Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành định phận tại sách trời
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

  58. Chiêu binh mãi mã
    Chiêu mộ binh lính và mua ngựa chiến (để chuẩn bị cho chiến tranh). Hiểu rộng ra là tập hợp lực lượng, vây cánh.
  59. Dung
    Biết là việc xấu, sai nhưng vẫn để tồn tại.
  60. Lâu la
    Từ chữ Hán 嘍囉, chỉ quân lính, tay chân của giặc cướp.
  61. Trào đàng
    Triều đình (cách nói cũ của Trung và Nam Bộ).

    Trạng nguyên tâu trước trào đàng,
    Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.

    (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)

  62. Bá quan
    Từ chữ Hán Việt 百 (trăm), và quan 官 (quan lại), chỉ tất cả các quan lại trong triều đình. Cũng nói là bá quan văn võ.
  63. Ngự sử
    Tên chung của một số chức quan có nhiệm vụ giám sát từ cấp cao nhất (vua) đến các cấp quan lại.
  64. Lai do
    Nguyên do sự việc.
  65. Đàng
    Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  66. Phú hào
    Những người giàu và có thế lực ở nông thôn thời phong kiến (từ Hán Việt).
  67. Rày
    Nay, bây giờ (phương ngữ).
  68. Ngờ (phương ngữ Nam Bộ).
  69. Binh nhung
    Binh 兵 (binh lính) và nhung 戎 (vũ khí, binh lính). Chỉ binh khí, quân đội, hoặc hiểu rộng ra là việc quân.
  70. Nam hoàng
    Vua nước Nam.
  71. Quản
    E ngại (từ cổ).
  72. Thì la, thì lảy
    Từ cũ chỉ bộ phận sinh dục nữ.
  73. Có bản chép: Thìa là, thìa lẩy. Hoặc: Chè la, chè lẩy.
  74. Ngồi lê
    Ngồi lê la, hết chỗ này tới chỗ khác.
  75. Dựa cột
    Ngồi dựa vào cây cột để nghỉ ngơi.
  76. Có bản chép: Ăn quà là ba, Kêu ca là bốn.
  77. Láu táu
    Hấp tấp, lanh chanh.
  78. Chùa Thầy
    Một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ (nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội). Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm.

    Phong cảnh chùa Thầy

    Phong cảnh chùa Thầy

    Lễ rước hội chùa Thầy

    Lễ rước hội chùa Thầy

  79. Sông Hồng
    Còn gọi là sông Cái, con sông lớn nhất chảy qua các tỉnh miền Bắc với nhiều phụ lưu cũng là các con sông lớn như sông Đà, sông Lô... Vùng hạ lưu sông gọi là đồng bằng sông Hồng, rất rộng lớn và màu mỡ, là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước (sau đồng bằng sông Cửu Long). Đoạn chảy qua Thăng Long trước đây gọi là Nhị Hà.

    Sông Hồng là con sông gắn liền với đời sống văn hoá, tình cảm của người dân Bắc Bộ.

    Sông Hồng buổi chiều nhìn từ cầu Long Biên

    Sông Hồng buổi chiều nhìn từ cầu Long Biên

  80. Sập
    Loại giường không có chân riêng, nhưng các mặt chung quanh đều có diềm thường được chạm trổ. Sập thường được làm bằng gỗ quý, thời xưa chỉ nhà giàu mới có.

    Cái sập

    Cái sập

  81. Hào
    Một trong các đơn vị tiền tệ (hào, xu, chinh, cắc) bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ thời Pháp thuộc. Mười xu bằng một hào, mười hào bằng một đồng.

    Tiền giấy năm hào

    Tiền giấy năm hào

  82. Thuốc lào
    Theo học giả Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữĐồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo (cỏ nhớ thương), vì người nghiện thuốc lào mà hai, ba ngày không được hút thì trong người luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu, trong đầu luôn luôn nghĩ đến một hơi thuốc, giống như nhớ người yêu lâu ngày không gặp. Thời xưa, ngoài "miếng trầu là đầu câu chuyện," thuốc lào cũng được đem ra để mời khách. Hút thuốc lào (cũng gọi là ăn thuốc lào) cần có công cụ riêng gọi là điếu.

    Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào.

    Hút thuốc lào bằng ống điếu

    Hút thuốc lào bằng ống điếu

  83. Cá liệt
    Còn gọi là cá ót, một loại cá biển có thân có hình thoi, dẹt bên, to khoảng ba, bốn ngón tay, nhiều xương. Cá thường được kho khô ăn kèm với cơm, nấu canh chua hay nấu riêu, hoặc để làm bột cá.

    Cá liệt

    Cá liệt

  84. Xà lách
    Còn gọi là rau diếp, một loại rau ăn kèm hay dùng để trang trí món ăn. Tên xà lách nguyên từ chữ Pháp salade, nghĩa là món rau củ trộn.

    Xà lách trộn thịt bò

    Xà lách trộn thịt bò

  85. Rau răm
    Một loại cây nhỏ, lá có vị cay nồng, được trồng làm gia vị hoặc để ăn kèm.

    Rau răm

    Rau răm

  86. Vừng
    Miền Trung và miền Nam gọi là mè, một loại cây nông nghiệp ngắn ngày, cho hạt. Hạt vừng là loại hạt có hàm lượng chất béo và chất đạm cao, dùng để ăn và ép lấy dầu.

    Hạt vừng có hai loại: trắng và đen

    Hạt vừng có hai loại: trắng và đen

  87. Trầu
    Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.

    Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.

    Lá trầu không

    Lá trầu không

    Một miếng trầu

    Một miếng trầu

    Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.

  88. Mần
    Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
  89. U
    Tiếng gọi mẹ ở một số vùng quê Bắc Bộ.
  90. Chị của mẹ.
  91. Kíp
    Gấp, vội. Từ này có nguồn gốc từ chữ Hán Việt cấp.
  92. Gạo ngữ
    Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Gạo ngữ, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  93. Cai
    Người trông coi trong các công trường, nhà tù thời phong kiến, Pháp thuộc.
  94. Ống bơ
    Vỏ lon đồ hộp. Trước dân ta hay dùng vỏ lon sữa đặc để đong gạo.

    Ống bơ

    Ống bơ