Ngẫu nhiên
-
-
Anh nên kiếm lấy một người
-
Thà rằng uống nước hố bom
-
Chưa ăn cỗ đã lo mất phần
Chưa ăn cỗ đã lo mất phần
-
Gió nam hây hẩy chiều hôm
Gió nam hây hẩy chiều hôm
Xong việc gặt hái, ôm con thả diều -
Đồn đây có gái hát tài
-
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn -
Cô kia tôi biết đã lâu
Cô kia tôi biết đã lâu
Chồng cô không có, con đâu cô bồng? -
Ô hô! Ba tiếng nhập quan
-
Ai lên cho tới cung trăng
-
Ăn một bát cơm
Ăn một bát cơm,
Nhớ người cày ruộng,
Ăn đĩa rau muống,
Nhớ người đào ao,
Ăn một quả đào,
Nhớ người vun gốc,
Ăn một con ốc,
Nhớ người đi mò,
Sang đò,
Nhớ người chèo chống,
Nằm võng,
Nhớ người mắc dây,
Đứng mát gốc cây,
Nhớ người trồng trọt. -
Hái dâu chi nắng cô ơi
-
Có tiền có gạo chàng ơi
Có tiền có gạo, chàng ơi
Không tiền không gạo, chàng ngồi em đi -
Đếm cua trong lỗ
-
Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo
Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo
Lựu xa đào, lựu xéo đào xiên
Vàng trên tay rớt xuống nước không phiền
Chỉ phiền một nỗi nợ với duyên không thànhDị bản
Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng
Vàng trên tay rớt xuống nước không phiền
Chỉ phiền một nỗi nợ với duyên không thành
-
Mả ai chôn tại bìa gò
-
Cha mẹ già lẫn lộn em ơi
-
Chẳng tư túi, chẳng trăng hoa
-
Mẹ trọc đầu con da cóc
-
Chàng ơi chẳng thấy chàng sang
Chú thích
-
- Dâm vô tang, đạo vô tích
- Dâm ô và trộm cắp không để lại tang tích, dấu vết (thành ngữ Hán Việt). Nghĩa rộng nói tình huống mất sạch dấu vết.
-
- Vần cơm
- Xoay nồi cơm trong bếp cho chín đều.
-
- Vãi
- Ném vung ra.
-
- Nhút
- Còn gọi là rau rút, quyết, quyết thái, một loại cây thân xốp, mọc bò trên mặt nước, có mùi thơm đặc trưng. Thân và lá nhút thường được dùng để ăn sống hoặc chế biến thành nhiều món luộc, xào, lẩu, v.v. Nhút còn là vị thuốc Đông y có tác dụng giải nhiệt, nhuận tràng, an thần.
-
- Hố bom
- Hố tạo thành do bom nổ.
Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em
Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Ðất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết thương đau.
(Khoảng trời - hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ)
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
-
- Nhập quan
- Đưa người chết vào quan tài. Đây là một lễ trong nghi thức đám tang của người Việt.
-
- Bảy thước
- Từ từ chữ Hán 七尺 thất xích, chiều cao trung bình của thân người theo cách ước lượng của người Trung Hoa cổ. Hiểu theo nghĩa hoán dụ, bảy thước chỉ người làm trai hoặc chí làm trai.
Trần Bình Trọng anh hùng ngàn thu trước,
Đem tấm thân bảy thước chống sơn hà
(Á Nam Trần Tuấn Khải)
-
- Ngân Hà
- Tên gọi của thiên hà bao gồm Trái Đất của chúng ta. Trên bầu trời đêm, Ngân Hà trông như một dải sáng trắng vắt ngang bầu trời, nên được hình tượng hóa thành một dòng sông trên thượng giới. Trong thần thoại Trung Quốc, Ngưu Lang và Chức Nữ bị sông Ngân Hà chia cách, nên sông Ngân còn tượng trưng cho sự ngăn cách lứa đôi.
-
- Vải bô
- Loại vải xấu, thường chỉ những người lao động, người nhà nghèo mới mặc.
-
- Đếm cua trong lỗ
- Tính đếm cái mà mình chưa có thì cũng như đếm cua trong lỗ, không có gì chắc chắn cả.
-
- Lựu
- Một loại cây ăn quả có hoa màu đỏ tươi, thường nở vào mùa hè. Quả khi chín có màu vàng hoặc đỏ, trong có rất nhiều hạt tròn mọng, sắc hồng trắng, vị ngọt thơm. Vỏ, thân, rễ lựu còn là những vị thuốc Đông y.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Truyện Kiều)Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
-
- Đào
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, cũng được trồng để lấy quả hay hoa. Hoa đào nở vào mùa xuân, là biểu tượng của mùa xuân và ngày Tết ở miền Bắc. Quả đào vị ngọt hoặc chua, mùi thơm, vỏ quả phủ một lớp lông mịn. Đào xuất hiện rất nhiều trong văn học cổ Trung Quốc và các nước đồng văn. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
-
- Duyên nợ
- Theo giáo lí nhân quả của nhà Phật, hai người gặp nhau được là nhờ duyên (nhân duyên), và nên nghĩa vợ chồng để trả nợ từ kiếp trước.
-
- Người nghĩa
- Người thương, người tình.
-
- Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
-
- Chấp
- Để bụng.
-
- Tư túi
- Lấy của công làm của riêng một cách lén lút.
-
- Nguyệt hoa
- Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.
Cởi tình ra đếm, ra đong
Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?
(Tơ xuân - Huy Trụ)