Một trăm ông chú không lo
Dị bản
Một trăm ông chú không lo
Lo vì một nỗi mụ o bên chồng
Một trăm ông chú không lo
Lo vì một nỗi mụ o bên chồng
Học ăn, học nói, học gói, học mở
Trách ai tính chuyện đa đoan
Ðã hái được mận lại toan bẻ đào
Anh thưa với mẹ cùng cha
Nếp mà lộn tẻ, lựa ra hay đừng?
Đò đưa đến bên đò ngưng
Anh thương em thuở trước, nửa chừng lại thôi!
Chê tôm ăn cá lù đù
Chê thằng bụng ỏng, lấy thằng gù lưng
Gởi thơ một bức
Đêm nằm thổn thức, dạ những luống trông
Biết làm sao cho vợ gặp chồng
Cho én hiệp nhạn
Gan teo từng đoạn, ruột thắt chín từng
Anh với em như quế với gừng
Dẫu xa nhân ngãi, xin đừng tiếng chi
Sông dài thì lắm đò ngang
Anh nhiều nhân ngãi thì mang oán thù
Trên trời có cả cầu vồng,
Có cái mống cụt đằng đông sờ sờ.
Hai tay cầm đôi ống tơ
Dù năm bảy mối cũng chờ mối nhau
Miếng trầu là miếng trầu cay
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi
Miếng trầu têm để trên cơi
Nắp vàng đậy lại đợi người tri âm
Miếng trầu kèm bức thư cầm
Chờ cho thấy khách tri âm sẽ chào
Miếng trầu têm để trên cao
Chờ cho thấy khách má đào mới cam
Miếng trầu têm ở bên nam
Mang sang bên bắc mời chàng hôm nay
Miếng trầu xanh rõ như mây
Hạt cau đỏ ối như dây tơ hồng
Miếng trầu như trúc như thông
Như hoa mới nở như rồng mới thêu
Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo."
Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết
Gán đời mình trọn kiếp với Dê Sao
(Nỗi lòng Tô Vũ - Bùi Giáng)
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
(Truyện Kiều)