Bao giờ cho đến tháng năm
Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn.
Bao giờ cho đến tháng năm
Dị bản
Bao giờ cho đến tháng mười
Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn.
Bao giờ cho đến tháng năm
Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn.
Bao giờ cho đến tháng mười
Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn.
Gặp anh trước hỏi sau chào
Năm nay anh có nơi nào hay chưa?
Có rồi năm ngoái năm xưa
Năm nay bỏ vợ như chưa có gì!
Nghe lời em kể thêm thương
Mong cho tình lược nghĩa gương vẹn tròn
Sang hèn cũng ba tấc đất
Thương dân, dân lập đền thờ,
Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương
Buồn ngủ lại gặp chiếu manh
Đã làm biếng lại gặp anh đứng đường
Buồn ngủ lại gặp chiếu manh
Hay ăn, làm biếng gặp anh đứng đường
Còn trời còn nước còn non
Còn trăng còn gió đây còn lẳng lơ
Chợ nào chợ chẳng có quà
Người nào chả biết một và bốn câu
Ở đâu đất đỏ như nâu
Sao cô không hát vài câu huê tình
Hỏi cô cô cứ làm thinh
Để ta hát mãi một mình sao đang
– Giã ơn quân tử nghìn vàng
Buông ra cho khách hồng nhan được nhờ
Cớ gì mà nắm giữa đường
Nợ chàng không nợ vay chàng không vay
Em van chớ nắm cổ tay
Buông ra em nói lời này thở than
Xin chàng chớ vội nắm ngang
Xa xôi cách mấy dặm đàng cũng nên
Tơ hồng chỉ thắm là duyên
Bao giờ em thuận thì nên bấy giờ
Con lợn mắt trắng thì nuôi
Những người mắt trắng đánh rồi đuổi đi
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào.
Đêm đêm trong ánh trăng mờ
Gần xa rộn tiếng nhặt thưa giã bàng
(Trường ca Đồng Tháp Mười - Nguyễn Bính)
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn
(Nhị Độ Mai)
Phận hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
(Truyện Kiều)
Kết cấu của lọng thường bao gồm một khung bằng tre nứa, có thể giương lên, xếp lại dễ dàng. Mặt trên lọng lợp bằng giấy phết sơn ta để chống thấm nước. Lọng còn thường được trang trí nhiều màu sắc và họa tiết tùy theo địa vị của người sử dụng.