Anh ngó lên mây bạc chín từng
Thấy đôi chim nhạn, nửa mừng nửa thương
Ngó lên mây trắng trời hồng
Thương em hỏi thiệt em có chồng hay chưa?
Ngẫu nhiên
-
-
Lá này gọi lá xoan đào
-
Ngồi buồn tước lạt bẻ cò
-
Ba năm tượng rách còn thờ
-
Ngồi buồn, nhớ nước nhớ nhà
Ngồi buồn, nhớ nước nhớ nhà
Nay anh đi lính, bỏ mẹ già ai nuôi. -
Anh ơi hai mái đầu xanh có tội tình chi mà chia li nam bắc
-
Mỹ hơn Mỹ ở tới già
Mỹ hơn Mỹ ở tới già
Mỹ thua Mỹ tặng mỗi nhà quả bom -
Lấy thúng úp voi
Lấy thúng úp voi
-
Đêm thổn thức ngồi khêu đèn phụng
-
Con không chê là cha mẹ khó
Con không chê là cha mẹ khó
Chó không chê là chủ nhà nghèo
Chẳng nên chửi chó mắng mèo
Đừng câu cay nghiệt, chớ điều lả lơi -
Của bền tại người
Của bền tại người
-
Đơm đó ngọn tre
-
Bông nào thơm bằng bông hoa lí
-
Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ
-
Đẹp như tiên, lo phiền cũng xấu
Đẹp như tiên, lo phiền cũng xấu
-
Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
-
Con chim xanh đậu nhành đu đủ
Con chim xanh đậu nhành đu đủ
Nhắc dân làng nhiệm vụ hộ đê
Quản chi công việc nặng nề
Cốt sao bảo vệ được đê vững vàng
Hộ đê, có tổng, có làng
Hộ đê đâu phải một làng mà thôi
Dù mưa dù nắng mặc trời
Làng trên xóm dưới người người quyết tâm
Khó khăn cũng phải dấn thân
Lo xong bổn phận công dân mỗi người -
Ở hiền gặp lành
Ở hiền gặp lành
-
Dầu trời làm trận phong ba
-
Không phải núi mà có khe
Chú thích
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Xoan
- Một loại cây được trồng nhiều ở các vùng quê Việt Nam, còn có tên là sầu đâu (đọc trại thành thầu đâu, thù đâu), sầu đông... Cây cao, hoa nở thành từng chùm màu tím nhạt, quả nhỏ hình bầu dục (nên có cụm từ "hình trái xoan"). Xoan thường được trồng lấy gỗ, vì gỗ xoan không bị mối mọt.
-
- Lạt
- Tre hoặc nứa chẻ mỏng, dẻo, dùng làm dây buộc.
-
- Bẻ cò
- Bẻ gập lại thành từng khúc để đếm (mỗi khúc là một lần).
-
- Giả đò
- Giả vờ (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Má hồng
- Từ chữ hồng nhan (cũng nói là hường nhan ở Nam Bộ), từ dùng trong văn thơ cổ chỉ người con gái đẹp.
Phận hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
(Truyện Kiều)
-
- Đầu xanh
- Chỉ người tuổi còn trẻ.
Hay là thuở trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.
Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
(Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà)
-
- Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
-
- Lụn
- Sắp hết, mòn dần đi.
-
- Đó
- Dụng cụ đan bằng tre hoặc mây, dùng để bắt tôm cá.
-
- Thiên lý
- Một loại cây dây leo, thường được trồng thành giàn lấy bóng mát, lá non và hoa dùng để nấu ăn.
-
- Thinh thinh
- Thênh thênh (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Tổng
- Đơn vị hành chính thời Lê, Nguyễn, trên xã, dưới huyện. Một tổng thường gồm nhiều xã. Người đứng đầu tổng là chánh tổng, cũng gọi là ông Tổng.
-
- Phong ba
- Gió (phong) và sóng (ba). Chỉ khó khăn thử thách.