Ngẫu nhiên
-
-
Nhởn nhơ cô gái cửa Đông
-
Học hành ba chữ lem nhem
Dị bản
Học trò ba chữ lem nhem
Thấy gái mà thèm, bỏ chữ trôi sông
-
Ta về ta rủ bạn ta
Ta về ta rủ bạn ta
Ruộng ta ta cấy, vườn ta ta trồng
Có làm thì hẳn có công
Can chi chầu chực mà mong của ngườiDị bản
Ta về ta rủ bạn ta
Nuôi lợn, nuôi gà, cày cấy ta ăn
-
Cắn ngón tay trỏ lấy máu đề thơ
-
Ngó lên mây bạc trăng tròn
Ngó lên mây bạc trăng tròn
Em lo một nỗi anh còn ngó nghiêng. -
Chuột bầy làm chẳng nên hang
-
Một đôi mà ở hai nhà
-
Người An Giang thật thà chất phác
-
Kim ngân phá lệ luật
-
Dùi nồi mà hàn
Dùi nồi mà hàn
-
Thấy em thấp bé mà xinh
Thấy em thấp bé mà xinh
Anh thuận nhân tình, anh nắm cổ tay
Nắm rồi anh hỏi cổ tay
Ai nặn nên trắng, ai xây nên tròn -
Trăng lên soi bóng anh đi
Trăng lên soi bóng anh đi
Thấy chân anh bước, dạ em thì quặn đau -
Thẳng như rắn bò
Thẳng như rắn bò
-
Thái Bình Dương gió thổi
-
Ăn chuối không biết lột vỏ
Ăn chuối không biết lột vỏ
-
Trách lòng thầy ký thầy cai
-
Lá lành đùm lá rách
Lá lành đùm lá rách
-
Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm
-
Cao Biền ơi hỡi Cao Biền
Chú thích
-
- Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
-
- Cửa Đông
- Khu vực phố cổ Hà Nội nằm ngoài cửa đông thành Thăng Long, ngày nay là phố Cửa Đông.
-
- Tao khang
- Cũng nói là tào khang hay tào khương, từ Hán Việt: tao là bã rượu, khang là cám gạo, những thứ mà người nghèo khổ thường phải ăn. Vua Hán Quang Vũ (đời Đông Hán, Trung Quốc) có ý muốn gả người chị góa chồng là Hồ Dương công chúa cho quan đại phu Tống Hoằng, nên hỏi "Ngạn vân: phú dịch thê, quý dịch giao, hữu chư?" (Ngạn ngữ có nói: giàu thì đổi vợ, sang thì đổi bạn, có chăng?). Tống Hoằng đáp "Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường" (Thần nghe: Bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ để ở nhà sau). Nghĩa tao khang do đó chỉ tình nghĩa vợ chồng vun đắp từ những ngày cực khổ.
-
- Chửa
- Mang thai.
-
- Thơ
- Thư (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Chuột bầy làm chẳng nên hang
- Đông người mà không có trí thì chẳng làm nên sự gì. (Đại Nam quấc âm tự vị - Huình Tịnh Của)
-
- An Giang
- Tỉnh đông dân nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, giáp với các tỉnh Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và biên giới Campuchia, hai tỉnh lị là Long Xuyên và Châu Đốc. Đất An Giang màu mỡ, nhiều phù sa và khoáng sản, lại có lắm di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh như lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An, núi Sam, Thất Sơn, rừng tràm Trà Sư...
-
- Kim ngân
- Vàng bạc (từ Hán Việt).
-
- Khác thể
- Chẳng khác nào, giống như.
-
- Kí lục
- Một trong hai chức quan phụ tá cho chức quan lưu thủ đứng đầu một tỉnh dưới thời nhà Nguyễn (chức quan kia là cai bạ). Quan kí lục coi việc lễ nghi, khánh tiết, hình án và thưởng phạt cấp dưới. Vị quan kí lục nổi tiếng nhất có lẽ là ông Nguyễn Cư Trinh, trước là kí lục tỉnh Quảnh Bình, sau có công bình định vùng đồng bằng sông Cửu Long về cho nhà Nguyễn.
Trong thời Pháp thuộc, kí lục chỉ người làm nghề ghi chép sổ sách trong các sở, còn gọi là thầy kí.
-
- Cai
- Người trông coi trong các công trường, nhà tù thời phong kiến, Pháp thuộc.
-
- Còi tầm
- Còi báo bắt đầu hoặc kết thúc giờ làm việc các xưởng, mỏ, công trường, nhà máy…
-
- Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm
- Một kinh nghiệm về bắt rươi. Vào ban đêm những ngày 20 tháng 9 và mùng 5 tháng 10 âm lịch, nước thủy triều dâng lên, rất nhiều rươi chui ra khỏi mặt đất (gọi là nứt lỗ rươi).
-
- Cao Biền
- Một viên tướng của nhà Đường (Trung Hoa), giữ chức Tiết độ sứ, cai quản Giao Châu (tên gọi của nước ta khi ấy) từ năm 866 đến năm 875. Theo Cựu Đường thư, Cao Biền liệt truyện thì Cao Biền thuộc dòng dõi thế gia, từ bé đã giỏi văn chương, lại có tài võ nghệ. Trong văn hóa Việt Nam có nhiều huyền thoại về nhân vật này như Cao Biền giỏi địa lí, thuật số, thường cưỡi diều bay đi yểm những chỗ có long mạch, hay chuyện Cao Biền rải đậu thành binh...