Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
Núi cao chi lắm núi ơi
Dị bản
Núi cao chi lắm núi ơi,
Che mất mặt trời chẳng thấy người thương
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
Núi cao chi lắm núi ơi,
Che mất mặt trời chẳng thấy người thương
Lội nước ướt chân,
Uống rượu xỉn mặt
Cô dâu chú rể
Đội rế lên đầu
Đi qua đầu cầu
Đánh rơi nải chuối
Cô dâu chết đuối
Chú rể khóc nhè
Tè tè tè tè
Cô dâu vào bếp
Ăn vụng cơm nếp
Chú rể vào bếp
Đánh chết cô dâu!
Cô dâu chú rể
Làm bể bình bông
Đổ thừa con nít
Bị ăn đòn téc đít
Người khôn con mắt dịu hiền
Người dại con mắt láo liên nhìn trời
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ non
Thiếp than phận thiếp còn thơ
Lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình
Cao không tới,
Thấp không xong
Đò đưa, đò đẩy một chuyến năm tiền
Chị em ai nấy xuống thuyền mà đi
Bậu nói với qua bậu không bẻ lựu hái đào
Lựu đâu bậu bọc, đào nào cầm tay?
Giàu điếc, sang đui
Thành ngữ kẻ Hán người Hồ, cũng nói tắt là Hán Hồ, vì thế chỉ nỗi đau li biệt của đôi lứa yêu nhau.
Theo tôn ti trật tự ngày xưa, ngồi phản phải xét ngôi thứ, chứ không phải ai muốn ngồi phản nào cũng được. Bậc trưởng thượng thường ngồi giữa phản, vai vế thấp hơn ngồi ở mé bên. Tương tự, chỉ có bậc trưởng thượng mới được ngồi phản giữa, đặt ngay chính giữa nhà. Vai vế thấp hơn phải ngồi phản chái đặt ở gian chái tây hướng ra vườn.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Truyện Kiều)
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
Lờ có nhiều loại: Loại đại dài từ 0,5 đến 1 m, gọi là “lờ bầu”, thả chỗ nước sâu như sông, hồ để bắt cá diếc, sảnh, dầy. Loại tiểu gọi là “lờ đồng”, thả nơi nước cạn như ao, đìa, ruộng bắt cá trê, rô, sặc, mương, nhét…