Anh xa em tiếc hủy tiếc hoài
Tiếc trong nhan sắc, tiếc ngoài khuê môn
Ngẫu nhiên
-
-
Mình ơi ta hỏi thật mình
-
Chuyện vợ chồng chớ có bồn chồn
Chuyện vợ chồng chớ có bồn chồn
Anh thương em thì xin dè dặt, chớ để thiên hạ đồn không hay -
Áo thì có vạt, có hò
-
Có chồng gần mẹ gần cha
Có chồng gần mẹ gần cha
Như cây gần giếng, sau mà nương thân. -
Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm
-
Thân em mười tám đôi mươi
-
Gặp em giữa chốn vườn đào
Gặp em giữa chốn vườn đào
Ướm lời hỏi bạn: nghèo giàu thương ai? -
Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó
Sóng trước đổ đâu,
Sóng sau đổ đó -
Trai anh hùng mắc nạn
-
Dù con đô đốc quận công
-
Đói thì ăn ráy ăn khoai
-
Bình chân như vại
-
Nàng về kết bạn cùng ta
Nàng về kết bạn cùng ta,
Ăn cá thay bánh, uống nước trà thay cơm. -
Kiến hổ, khổ ba năm
-
Gió đưa buồng chuối sau hè
Dị bản
Gió đưa buồng chuối sau hè
Lăm le con chị, dò dè con em
-
Nâng khăn sửa túi
Nâng khăn sửa túi
-
Anh đau em vái tận tình
-
Trái dưa gang sọc dài sọc ngắn
-
Nam cắc, Bắc hào
Chú thích
-
- Khuê môn
- Cửa nhà trong, chỗ con gái ở (từ Hán Việt).
-
- Gàu giai
- Có nơi gọi là gàu dây, dụng cụ nhà nông dùng để tát nước cho lúa hoặc tát ao, tát đầm khi bắt cá. Gàu giai được đan bằng tre, nứa hoặc mây. Khi tát nước, hai người đứng hai bên, mỗi người nắm một đầu thừng để cùng tát.
-
- Nhân ngãi
- Người thương, người tình (từ cổ). Cũng nói nhân ngãi, ngỡi nhân.
-
- Hò
- Đường mép chạy từ giữa cổ đến nách áo phía bên phải ở thân trước áo dài.
-
- Làng La
- Tên gọi chung bảy làng ở huyện Từ Liêm, trấn Sơn Tây xưa, nay thuộc quận Hà Đông và huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Bảy làng gồm: La Cả (Ỷ La và La Nội), La Khê, La Du, La Dương, La Phù, La Tinh. Xưa kia bảy làng này đều có nghề dệt cổ truyền. La (羅) theo nghĩa chữ Hán có nghĩa là dệt sợi, đan sợi. Các làng dệt thờ 10 vị tiên sư sống vào thời Lê Trung Hưng từ nơi khác đến cư ngụ và có công cải tiến nâng cao kỹ thuật dệt. Ngoài ra nơi đây còn thờ ông Trần Quý (thế kỷ 19) làm ông tổ nghề dệt gấm.
-
- Yên Lãng
- Tên nôm là làng Láng, nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội, xưa thuộc xã Yên Lãng, gần cửa Bảo Khánh, thành Thăng Long. Làng có nghề trồng rau, trong đó nổi tiếng nhất là rau húng. Húng Láng khi trồng ở làng thì có một hương vị riêng rất đặc biệt, hương vị này không còn nếu đem đi trồng ở làng khác.
-
- Diêm Khê
- Tên Nôm là làng Đầm, một làng nay thuộc xã Hợp Tiến, Mỹ Đức, Hà Tây, Hà Nội.
-
- Cá rô
- Loại cá rất thường gặp trên các đồng ruộng ở nước ta. Nhân dân ta thường tát đồng để bắt cá rô. Cá rô đồng có thịt béo, thơm, dai, ngon, dù hơi nhiều xương, và được chế biến thành nhiều món ngon như kho, nấu canh, làm bún...
Lưu ý: Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng.
-
- Hồ Tây
- Còn có các tên gọi khác như đầm Xác Cáo, hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ, là hồ nước tự nhiên lớn nhất ở nội thành Hà Nội, có diện tích hơn 500 ha với chu vi là 18 km. Hồ là một đoạn của sông Hồng ngày trước. Từ xa xưa, hồ Tây đã là một thắng cảnh nổi tiếng, nhiều lần được đưa vào văn chương nghệ thuật.
-
- Giả như
- Giống như, ví dụ như (phương ngữ).
-
- Trạng nguyên
- Danh hiệu của người đỗ cao nhất khoa thi Đình dưới thời phong kiến. Đỗ nhì là Bảng nhãn, đỗ ba là Thám hoa. Các trạng nguyên nổi tiếng nhất trong lịch sử nước ta có thể kể đến: Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh (Trạng Lường), Mạc Đĩnh Chi (Lưỡng quốc Trạng nguyên), Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình)... Ngoài ra, một số nhân vật trong lịch sử tuy không đạt danh hiệu này nhưng nhờ có tài năng lớn mà cũng được nhân dân tôn làm Trạng (Trạng Ăn Lê Như Hổ, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Trạng Quỳnh...)
-
- Đô đốc
- Tên một chức quan chuyên trách về quân sự trong thời phong kiến. Tùy theo từng thời kì mà chức đô đốc có những quyền hạn khác nhau, nhưng đều là cấp cao (ví dụ đứng đầu bên võ).
-
- Quận công
- Một tước hiệu thời phong kiến trong lịch sử nước ta, phổ biến nhất vào thời vua Lê - chúa Trịnh. Khi ấy quận công được xếp chỉ sau vua, chúa và vương.
-
- Ráy
- Loài cây mọc ở bụi bờ ẩm thấp, thân mềm hình bẹ, lá hình tim, thân ngầm hình củ. Củ ráy có vỏ màu vàng nâu. Tài liệu cổ coi củ ráy là vị nhạt, tính hàn, độc nhiều, ăn vào gây ngứa miệng và họng.
-
- Vại
- Đồ đựng bằng sành, gốm, hình trụ, lòng sâu, để đựng nước hoặc mắm.
-
- Kiến
- Gặp, trông thấy (từ Hán Việt).
Nhớ câu "kiến ngãi bất vi"
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
(Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
-
- Dò dè
- Dò xét với ý muốn chiếm đoạt (phương ngữ miền Trung).
-
- Chầy
- Hết (bệnh).
-
- Dưa gang
- Một loại dưa quả dài, vỏ xanh pha vàng cam (càng chín sắc vàng càng đậm), kích thước tương đối lớn.
-
- Rau đắng
- Cũng gọi là cây càng tôm, cây biển súc, một loại rau hình mũi mác, có vị đắng, thường được dùng làm rau sống hay chế biến nhiều món khác nhau, hoặc làm thuốc.
Nghe bài hát Còn thương rau đắng mọc sau hè.