Khăn nâu, áo vải là thường
Cốt trau cho được luân thường là hơn
Ngẫu nhiên
-
-
Mình về ta ngóng ta trông
Mình về ta ngóng ta trông
Ta về mình chẳng chút công đoái hoài -
Nhìn em chẳng dám nhìn lâu
Nhìn em chẳng dám nhìn lâu
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi -
Rắn trun khác rắn rằn ri
-
Củ cà rốt
-
Lui lui ớ bạn lui lui
-
Thương nhau chẳng biết làm sao
-
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô,
Mượn kiều chú lính đưa cô tôi về.
Cô về chẳng lẽ về không,
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau.
Ngựa ô đi tới Quán Cau,
Ngựa hồng đủng đỉnh còn sau Gò Điều.Dị bản
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiều chú lính đưa cô tui dìa
Dìa dầy chẳng lẽ dìa không?
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau
Ngựa ô đi tới Quán Cau
Ngựa hồng lẽo đẽo theo sau chợ chiều
Chợ chiều nhiều khế ế chanh
Nhiều cô gái lứa nên anh chàng ràngChiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Đưa về chợ Thủ bán hũ bán ve
Bán bộ đồ chè bán cối đâm tiêuChiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiều chú Xã đưa cô tôi về
Ngựa ô đi tới vườn cau
Ngựa hồng đủng đỉnh đi sau vườn dừaChiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Cô về thăm quán thăm quê
Thăm cha thăm mẹ, chớ hề thăm ai.
-
Ngó lên cổ yếm em may
-
Về coi đồng Mía, cồn Trăm
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Thân anh lỡ dại hai lần
-
Trên kính dưới nhường
Trên kính dưới nhường
-
Những người tính nết thật thà
Những người tính nết thật thà
Đi đâu cũng được người ta tin dùng -
Anh về ba bữa anh lên
-
Anh thương em thì thưong cho chắc, thương cho chặt, thương cho bền
Anh thương em thì thưong cho chắc, thương cho chặt, thương cho bền
Đừng thương lỡ dở bắt đền uổng công
Dốc lòng trồng lúa bẻ bông
Ngó ra ngoài biển thấy ông đưa đò -
Dầu chàng năm bảy mặt con
Dầu chàng năm bảy mặt con
Thiếp đôi ba lứa vẫn còn nhớ nhau -
Mưa rơi cho ướt mái đầu
Mưa rơi cho ướt mái đầu
Giữa trời không nón dìu nhau ta về. -
Một năm làm nhà, ba năm hết gạo
Một năm làm nhà,
Ba năm hết gạo -
Mấy đời cơm nguội lên hơi
Mấy đời cơm nguội lên hơi
Cái thân làm bé thảnh thơi bao giờ -
Em ơi thân thể anh đây
Em ơi thân thể anh đây
Lờ đờ mắt lớn, tối ngày sáng đêm
Chú thích
-
- Luân thường
- Phép tắc đạo đức của Nho giáo phong kiến, qui định hành động hằng ngày của người ta.
-
- Rắn trun
- Một loại rắn tương đối phổ biến ở nước ta, đặc biệt thường được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long. Rắn trun là loài rắn lành, không độc, thân mình có khoang trắng xen kẽ khoang đen, đào hang sống dưới đất hay sống dưới các tầng rơm, lá mục. Điểm đặc biệt nhất trên thân mình rắn trun là chiếc đuôi bẹt, ngắn và nhọn, khi gặp nguy hiểm thì cong dựng lên. Chính vì đặc điểm này mà một số người cho rằng rắn trun có hai đầu, hay là đuôi rắn trun chứa nọc độc có thể gây chết người.
-
- Rắn rằn ri
- Một loài rắn nước, có nhiều loại, phổ biến nhất là rằn ri cá, rằn ri voi, rằn ri cóc, rằn ri chệch... Rằn ri thường được chế biến thành các món ăn dân dã như rắn xào dừa, rắn nướng, cháo rắn...
-
- Bờ Hồ
- Tên người Hà Nội gọi khu vực ven bờ hồ Hoàn Kiếm. Khu vực này từ xưa đã rất đông đúc, sầm uất, với nhiều cửa hàng cửa hiệu, quán xá...
Anh Tố ơi con mắt anh không sáng cũng không nhèm
Suốt đời anh không biết ăn kem Bờ Hồ
(Vũ Bằng)
-
- Chun
- Chui (phương ngữ).
-
- Trẫm
- Gốc từ chữ trầm 沈, nghĩa là chìm. Trẫm mình hay trầm mình nghĩa là tự tử bằng cách nhảy xuống nước cho chết đuối.
-
- Kiều ngựa
- Yên ngựa (từ địa phương).
-
- Quán Cau
- Đèo Quán Cau ở làng Mỹ Phú, còn chợ Quán Cau ở làng Phong Phú, đều thuộc xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Tại đây nổi tiếng có giống ngựa thồ rất tốt. Phía đông đèo Quán Cau là đầm Ô Loan, một thắng cảnh nổi tiếng của nước ta.
Về địa danh Quán Cau, có câu chuyện sau: Ngày xưa, nơi chân đèo Quán Cau có một bà cụ già không rõ từ đâu đến. Bà cất quán bán trầu cau, khách bộ hành qua đèo khá dài nên dừng chân giải khát, mua trầu cau ăn nghỉ rồi tiếp tục hành trình. Người đi ra Bắc đến chân đèo thì chờ người bạn đường, cũng mua trầu cau ăn rồi tiếp tục trèo đèo. Vì thế có tên đèo Quán Cau.
-
- Gò Điều
- Tên một xóm thuộc ấp Bình Quang, thôn Phú Điềm (xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ngày nay). Giữa xóm có cây điều to lớn tán lá um tùm, trải bóng mát một vùng, khách qua lại thường dừng chân nghỉ mát. Về sau, khi làm đường cây điều bị chặt đi nhưng xóm vẫn được gọi là Gò Điều.
-
- Vìa
- Về (phương ngữ Trung và Nam Bộ), thường được phát âm thành dìa.
-
- Chàng ràng
- Quanh quẩn, vướng bận, chậm chạp (để kéo dài thời gian hoặc gây chú ý).
-
- Chợ Thủ
- Chợ ở tỉnh Thủ Dầu Một (nay là thành phố Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương), ban đầu gọi là chợ Phú Cường. Phần “Thị Điểm” (Chợ Quán) của sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: “Chợ Phú Cường ở thôn Phú Cường, huyện Bình An tục danh gọi là chợ Thủ Dầu Miệt (hay Dầu Một) ở bên lị sở huyện, xe cộ ghe thuyền tấp nập đông đảo.” Đến năm 1889, trên địa bàn huyện Bình An, tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập, chợ Phú Cường trở thành chợ tỉnh Thủ Dầu Một.
-
- Ve
- Cái ly (phiên âm từ danh từ tiếng Pháp "le verre"), còn được hiểu là chai nhỏ, lọ nhỏ.
-
- Cối đâm tiêu
- Cối nhỏ dùng để giã tiêu.
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Đồng Mía, cồn Trăm
- Hai địa danh thuộc thôn Ngọc Điền, nay thuộc thị trấn Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
-
- Mằn
- Mân mê, sờ mó (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Phên
- Đồ đan bằng tre, nứa, cứng và dày, dùng để che chắn. Một số vùng ở Bắc Trung Bộ gọi là phên thưng, bức thưng.
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Bảy Hột.