Ngẫu nhiên
-
-
Trầu ai bưng tới thì ăn
Trầu ai bưng tới thì ăn
Rượu kia rót uống duyên căn tại trời. -
Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân
Ăn một mình đau tức,
Làm một mình cực thân -
Năng mưa, năng tốt lúa đường
Dị bản
Năng mưa năng tốt lúa đường
Năng đi năng lại xem thường xem khinh
-
Con công tố hộ trên rừng
-
Có nên thì nói là nên
-
Tơ tằm đã vấn thì vương
-
Đất có lề, quê có thói
Đất có lề, quê có thói
Dị bản
Đất lề quê thói
-
Tam thủ nhất vĩ
-
Mỗi người phải có một nghề
-
Lêu lêu mặt thớt
-
Tưởng là mai trước lại vầy
-
Vợ chồng người ta sao đủ đôi đủ bạn
-
Tới đây ăn gửi, nằm nhờ
-
Ỉa cho đúng lỗ mới tài
-
Kể chuyện ông huyện về quê
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Cái gì không mắt, không tai
-
Lờ đờ như đom đóm đực
-
Cá rô róc rách đường cày
Dị bản
Rô ranh róc rách đường cày
Ai ghẹo gì mày hỡi cá rô ranh?
-
Dạo chơi quán Sở lầu Tần
Chú thích
-
- Năng
- Hay, thường, nhiều lần.
-
- Công
- Một loài chim thuộc họ Trĩ, có tên Hán Việt là khổng tước. Chim trống bộ lông có màu lục óng ánh, đuôi rất dài, có màu lục ánh đồng, mỗi lông ở mút có sao màu lục xanh, đỏ đồng, vàng, nâu. Mào dài, hẹp thẳng đứng, phần mặt của nó có màu vàng và xanh, khi nó múa đuôi xòe ra hình nan quạt để thu hút chim mái. Công mái không có đuôi dài và đẹp như công trống.
-
- Tố hộ
- Tiếng chim công kêu.
-
- Cà cuống
- Loài bọ cánh nửa, sống ở nước, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay, dùng làm gia vị.
-
- Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
-
- Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
-
- Vầy
- Vầy duyên, kết duyên (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Rờ
- Sờ.
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Đom đóm
- Loài côn trùng cánh cứng nhỏ có khả năng phát quang, có tập tính hoạt động về ban đêm, con đực thường có cánh và bay vào những đêm đầu mùa hạ.
-
- Cá rô
- Loại cá rất thường gặp trên các đồng ruộng ở nước ta. Nhân dân ta thường tát đồng để bắt cá rô. Cá rô đồng có thịt béo, thơm, dai, ngon, dù hơi nhiều xương, và được chế biến thành nhiều món ngon như kho, nấu canh, làm bún...
Lưu ý: Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng.
-
- Don
- Kích cỡ trung bình, không lớn không nhỏ (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Quán Sở lầu Tần
- Quán Sở: Nơi vua Sở Tương Vương nằm mộng được chung chăn gối với tiên nữ ở núi Vu Sơn. Lầu Tần: Ngôi lầu do vua Tần Mục Công dựng lên để rước Tiêu Sử về dạy thổi sáo cho công chúa Lộng Ngọc, về sau hai người yêu rồi lấy nhau. Quán Sở lầu Tần do đó chỉ nơi hò hẹn tình tự của đôi trai gái yêu nhau.
Hương đèn khuya sớm độ thân
Biết đâu quán Sở lầu Tần viển vông
(Truyện Phan Trần)
-
- Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
- Có duyên với nhau thì xa xôi cách trở mấy cũng có thể gặp nhau.
Nghe bài dân ca Hữu duyên thiên lí ngộ.