Hèn mà làm bạn với sang
Dị bản
Hèn mà làm bạn với sang
Kẻ ngồi người đứng có ngang nhau bao giờ
Hèn mà làm bạn với sang
Kẻ ngồi người đứng có ngang nhau bao giờ
Quê em sóng nước xanh xanh
Bán buôn tấp nập ghe mành liên miên
Từ ngày giặc Pháp cuồng điên
Bao vây đốt phá ghe thuyền nát tan
Chồng em đi biển thác oan
Con em bụng đói da vàng bọc thân
Sớm hôm em chạy tảo tần
Bữa khoai bữa sắn em lần nuôi con
Đá mòn nhưng dạ không mòn
Quê em còn khổ em còn đánh Tây
Gặp mặt em đây ngặt đà quá ngặt
Giữa cảnh ba bề nghiêm nhặt khó phân.
Thừa người nhà mới ra người ngoài
Thừa trong nhà mới ra bề ngoài
Tiếng đồn mì Quảng Phú Chiêm
Cao lầu Phố Hội, mắm nêm Cẩm Hà
Tam Kỳ có món cơm gà
Nam Ô nước mắm đậm đà thơm ngon
Đại Lộc nhiều trái bòn bon
Khoai lang Trà Đóa, Quế Sơn nếp mường
Cẩm Sa có giống lúa vàng
Gạo ngon thơm phức, trăng tròn mùa thu
Bàn Lãnh có gốc mù u
Cá trôi mùa lũ, sông Thu chảy về
Vĩnh Điện chả lụa khỏi chê
Xu xoa Khúc Lũy, thịt bê Chợ Cầu
Quán Rường , Chợ Được Câu Lâu
Bánh tráng cá hấp ở đâu ngon bằng? …
Xởi lởi, trời gửi của cho
xo ro, trời co của lại
Cây ngay không sợ chết đứng
Đôi ta như muối với me
Thuyền chèo có cặp, đi ghe chung tình
Đá mòn nhưng dạ không mòn
Quê em còn khổ em còn đánh Tây
Nghe bài hát Quế Sơn đất mẹ ân tình của nhạc sĩ Đình Thậm.
Về tên cây cầu này, có một sự tích: Ngày xưa, ven sông Chợ Củi, có một đôi vợ chồng từ xa đến lập nghiệp. Ngày ngày, chồng đi câu cá đổi gạo, vợ ở nhà trồng rau, vun vén gia đình. Chỗ ngồi câu cá quen thuộc của người chồng là trên một tảng đá gần bờ sông. Một đêm nọ, có cơn nước lũ từ nguồn đột ngột đổ về, người chồng bị cuốn đi. Người vợ ở nhà, đợi mãi vẫn chẳng thấy chồng về, cứ bồng con thơ thẩn ra vào, miệng luôn lẩm bẩm: "Câu gì mà câu lâu thế!" Cuối cùng, sốt ruột quá, nàng bồng con ra sông để tìm chồng. Khi hiểu ra sự việc, nàng quỳ khóc nức nở rồi ôm con gieo mình xuống dòng nước. Dân làng cảm thương đôi vợ chồng nghèo chung tình, đặt tên cho cây cầu bắc qua sông Chợ Củi là cầu Câu Lâu.
Thật ra Câu Lâu là một địa danh gốc Champa, biến âm từ chữ Pulau có nghĩa là "hòn đảo."
Các nhà văn cổ điển của nước ta thường viết theo ý câu ấy:
Mặn mà chìm cá rơi chim
(Hoa Tiên)
Hay:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng lơ trời nhạn ngẩn ngơ sa
(Cung oán ngâm khúc)
Cũng cần thấy rằng thành ngữ này mang tính văn chương nhiều hơn là tính khẩu ngữ, và đặc biệt được sử dụng nhiều trong văn học cổ.