Tìm kiếm "mưa giăng"

  • Cuộc ở đời nói chơi anh đừng giận

    – Cuộc ở đời nói chơi anh đừng giận
    Hỏi đó một lời cho tận nhơn tâm
    – Hễ gặp tri âm dẫu nói cả năm anh không mỏi,
    Vậy chớ con bạn mình muốn hỏi sự chi?
    – Hỏi anh một chuyện, em nguyện học đòi,
    Anh ôi, vậy chớ người Tây sao sướng hẳn hòi,
    An nam mình lại chịu thiệt thòi nắng mưa?
    – Người có vinh có nhục, cũng như nước có đục có trong,
    Bởi vì mình ít có đồng lòng,
    Không lo học giỏi cho ròng như Tây
    – À há? Thật họ hay, nên làm thầy mình chịu dở,
    Mình chẳng lo mình, mấy thuở được nên?
    – Phận em là gái còn phải trái xét nhằm,
    Huống gì nam tử cam tâm
    Nếu không lo học tập, hổ thầm phận trai.

  • Em trải chiếc chiếu ra

    Em trải chiếc chiếu ra
    Em ngồi một góc, anh ngồi một góc
    Thiếp khóc chàng than
    Anh xa em vì bởi thế gian
    Cho nên nước mắt nhỏ tràn năm canh
    Giậm chân kêu thấu trời vàng
    Kêu anh trở lại nhìn nàng thuở xưa
    Mai mưa, trưa nắng, chiều xâm
    Em là thục nữ có tâm đợi chờ
    Khi vui chén rượu con cờ
    Khi buồn hoa nở còn chờ trăng thanh
    Chiều rày em mới xa anh
    Trăm hoa cùng héo, chín mười nhành cùng khô
    Cơm ăn chẳng được chỉ nước hồ dưỡng thân
    Dang tay anh dứt Châu Trần
    Ai xa cho biết, ai gần cho hay

  • Một năm chia mười hai kì

    Một năm chia mười hai kì
    Em ngồi em tính khó gì chẳng ra
    Tháng giêng ăn tết ở nhà
    Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
    Tháng ba đi bán vải thâm
    Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
    Tháng sáu em đi buôn bè
    Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
    Chín, mười cắt rạ đồng mùa
    Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
    Anh ăn rồi anh lại nằm
    Làm cho em phải quanh năm lo phiền
    Chẳng thà lấy chú lực điền
    Gạo bồ thóc đống còn phiền nỗi chi?

  • Nhà giàu ngồi mát bát vàng

    Nhà giàu ngồi mát bát vàng
    Nàng tham chốn ấy anh sang làm gì
    Xưa kia nói nói thề thề
    Cá trê chui ống lọt về giếng khơi
    Mới hay lấy vợ trên đời
    Chẳng tại trời, tại không tiền nằm không
    Dù em nên vợ nên chồng
    Con bế con bồng nghĩ lại duyên xưa
    Trời có mây mà chẳng có mưa
    Sao em lại nỡ đong đưa với tình?
    Mới hay duyên nợ ba sinh
    Nhà giàu cướp cả cái tình đôi ta
    Anh chẳng trách mẹ trách cha
    Trách đời chênh lệch hóa ra thế này!

  • Anh ơi, phải lính thì đi

    Anh ơi! phải lính thì đi
    Cửa nhà mọi việc em thì chẳng sai
    Tháng chạp là tiết trồng khoai
    Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
    Tháng ba cày vỡ đất ra
    Tháng tư gieo mạ, thuận hòa mọi nơi
    Tháng mười gặt hái vừa rồi
    Trời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng
    Anh ơi, hãy giữ việc công
    Để em cày cấy, mặc lòng em lo

    Dị bản

    • Anh ơi, phải lính thì đi
      Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em

    • Anh ơi, phải lính thì đi
      Con còn măng dại đã thì có em

  • Con tôi buồn ngủ buồn nghê

    Con tôi buồn ngủ buồn nghê
    Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
    Nhà còn có một quả cà
    Làm sao đủ miếng cơm và cho con
    Con tôi khóc héo, khóc hon
    Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa
    Con thèm phẩm oản trên chùa
    Con thèm chuối ngự tiến vua của làng
    Con thèm gạo cốm làng Ngang
    Con thèm ăn quả dưa gang làng Quài
    Con thèm cá mát canh khoai
    Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng
    Con thèm đuôi cá vây bông
    Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao

  • Trên trời có vẩy tê tê

    Trên trời có vẩy tê tê
    Một ông bảy vợ, chẳng chê vợ nào.
    Một vợ tát nước bờ ao
    Phải trận mưa rào, đứng nép bụi tre
    Một vợ thì đi buôn bè
    Cơn sóng, cơn gió nó đè xuống sông.
    Một vợ thì đi buôn bông
    Chẳng may, cơn táp nó giông lên trời.
    Một vợ thì đi buôn vôi
    Không may phải nước vôi sôi ầm ầm.
    Một vợ thì đi buôn mâm
    Không may mâm thủng lại nằm ăn toi.
    Một vợ thì đi buôn nồi
    Không may nồi méo, một nồi hai vung.
    Một vợ thì đi buôn hồng
    Không may hồng bẹp, một đồng ba đôi.
    Than rằng: Đất hỡi trời ơi!
    Trời cho bảy vợ như tôi làm gì!

    Dị bản

    • Trên trời có vẩy tê tê
      Có ông bốn vợ chẳng chê vợ nào
      Một vợ rửa bát cầu ao
      Chẳng may gió cả dạt vào bụi tre
      Một vợ thì đi buôn bè
      Chẳng may gió cả nó đè xuống sông
      Một vợ thì đi buôn bông
      Chẳng may gió cả nó bồng lên mây
      Một vợ thì đi buôn cây
      Chẳng may gió cả cuốn bay lên trời.

  • Sáng ngày mới sớm tinh sương

    Sáng ngày mới sớm tinh sương
    Cơm trôi khỏi miệng vác choòng ra đi
    Vợ nghèo ẵm trẻ hài nhi
    Lên tầng để bụi, rồi đi đẩy goòng
    Trẻ thơ nằm mớ bòng bong
    Nô đùa muỗi cỏ, đói lòng ngậm que
    Lên tầng khuỵu gối đun xe
    Gò lưng mửa mật nắng hè quản chi
    Chồng xuống lò giếng đen sì
    Mong sao cho chóng chiều về một công!

  • Vè loài vật

    Ve vẻ vè ve
    Cái vè loài vật
    Trên lưng cõng gạch
    Là họ nhà cua
    Nghiến răng gọi mưa
    Đúng là cụ cóc
    Thích ngồi cắn chắt
    Chuột nhắt, chuột đàn
    Đan lưới dọc ngang
    Anh em nhà nhện
    Gọi kiểu tóc bện
    Vợ chồng nhà sam

  • Thân em thái thể đồng tiền

    – Thân em thái thể đồng tiền
    Lớn thời ăn sáu nhỏ nguyền ăn ba
    Chữ đề thông bửu quốc gia
    Dân yêu quan chuộng nghĩ đà sướng chưa?
    – Thân anh thái thể chuối già
    Ăn sáu anh cũng xỏ, ăn ba không từ
    Đi ra mua bán đời chừ
    Đồng sứt đồng mẻ anh không từ đồng mô
    Nói ra thì sợ mất lòng cô
    Chứ đường ngay tôi xỏ thẳng, lẽ mô cô giận hờn

  • Vè chim chóc

    Nghe vẻ nghe ve
    Nghe vè chim chóc
    Hay moi hay móc
    Vốn thiệt con dơi
    Thấy nắng thì phơi
    Là con Diệc mốc
    Lặn theo mấy gốc
    Là chim Thằng Chài
    Lông lá thật dài
    Là con chim Phướn
    Rành cả bốn hướng
    Là chim Bồ Câu
    Giống lặn thật lâu
    Là con Cồng Cộc
    Ăn táp sồng sộc
    Là con chim Heo

  • Em là thân phận nữ nhi

    Em là thân phận nữ nhi
    Thầy mẹ thách cưới làm chi bẽ bàng
    Tiền thời chín hũ lồng quang
    Cau non trăm thúng họ hàng ăn chơi
    Vòng vàng kéo đủ mười đôi
    Nhẫn ba trăm chiếc, tiền thời mười quan
    Còn bao của hỏi của han
    Của mất tiền cưới của mang ta về
    Cưới ta trăm ngỗng nghìn dê
    Trăm ngan nghìn phượng ta về làm dâu
    Cưới ta chín chục con trâu
    Ba trăm con lợn đưa dâu về nhà
    Chàng về nhắn nhủ mẹ cha
    Mua tre tiện đốt làm nhà ở riêng
    Chàng về nhắn nhủ láng giềng
    Quét cổng quét ngõ, ra giêng ta về
    Ta về ta chẳng về không
    Voi thì đi trước ngựa hồng theo sau
    Ba bà cầm quạt theo hầu
    Mười tám người hầu đi đủ thì thôi

  • Mồng năm chợ Ó

    Mồng năm chợ Ó
    Quan họ dồn về
    Hội vui lắm lắm
    Chưa kịp đi tắm
    Chưa kịp gội đầu
    Trầu chửa kịp têm
    Cau chưa kịp bổ
    Miếng lành, miếng sổ
    Miếng lại quên vôi
    Người có yêu tôi
    Thì người cầm lấy
    Các anh đứng đấy
    Thầy mẹ đứng đâu?
    Mời lại xơi trầu
    Mừng cho dâu mới
    Mặt trời đã tối
    Đám hội đã tàn
    Ai có hồng nhan
    Mang ra chơi hội
    Dưới sông múa rối
    Trên bãi trồng vừng
    Một đấu, một thưng
    Bằng nhau như tiện
    Như tiện như tề
    Kẻo thế gian chê
    Chồng cao vợ thấp!

  • Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dĩa, dọn bàn

    Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dĩa, dọn bàn,
    Tay em san rượu chát, miệng em hát một đôi câu.
    Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ,
    Dưới nhà việc trống đổ tàn canh.
    Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành?
    Giả như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua

    Dị bản

    • Canh khuya em thức dậy
      Em lau đĩa, dọn bàn
      Tay em san rượu chát
      Miệng em hát đôi câu
      Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ
      Dưới nhà việc trống đổ tàn canh
      Em đây năm bảy người giành
      Như cá ở chợ, dạ ai đành nấy mua.

    • Chiều chiều rửa dĩa lau bàn
      Tay sang rượu chát
      Miệng hát đôi câu
      Trống trên lầu vội đổ
      Trống ngoài chợ tan canh
      Lịch sử làm chi ba bảy người giành
      Tợ như con cá rô ở giữa chợ
      Ai đành nấy mua!

  • Giàu như ai thì tôi không biết

    Giàu như ai thì tôi không biết
    Chớ giàu như tôi chừ, ít kẻ muốn vô:
    Trong nhà trống rỗng, chỗ mô cũng thấy trời
    Trong nhà chẳng thiếu chi đồ chơi
    Nàng nàng, bợp bợp mọc thời huyên thuyên
    Rau dền, rau má mọc riêng
    Cỏ chỉ, cỏ cú mọc liền đầy sân
    Trong nhà có sắm một cái giàn
    Để năm ba tấm đệm, vài ngàn lá tơi
    Lại thêm năm bảy cái nón cời
    Vài gùi giẻ rách để chờ thời diện sang

  • Công anh đắp nấm, trồng chanh

    Công anh đắp nấm trồng chanh
    Ăn quả chẳng được, vin cành cho cam.
    Xin em đừng ra dạ bắc nam,
    Nhất nhật bất kiến như tam thu hề.
    Huống tam thu nhi bất kiến hề,
    Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
    Chắc gì đâu đã hẳn hơn đâu,
    Cầu tre vững nhịp hơn cầu thượng gia
    Bắc thang lên thử hỏi trăng già
    Phải rằng phận gái hạt mưa sa giữa trời?
    May ra gặp được giếng khơi
    Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn
    Chẳng may số phận gian nan
    Lầm than cũng chịu, dễ phần nào cậy ai!
    Đã yêu nhau giá thú bất luận tài.

Chú thích

  1. Nhân tâm
    Lòng người (từ Hán Việt).
  2. Tri âm
    Bá Nha đời Xuân Thu chơi đàn rất giỏi, thường phàn nàn thiên hạ không ai thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một lần Bá Nha đem đàn ra khảy, nửa chừng đàn đứt dây. Đoán có người rình nghe trộm, Bá Nha sai lục soát, bắt được người đốn củi là Tử Kỳ. Tử Kỳ thanh minh rằng nghe tiếng đàn quá hay nên dừng chân thưởng thức. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, tâm trí nghĩ tới cảnh non cao, Tử Kỳ nói: Nga nga hồ, chí tại cao sơn (Tiếng đàn cao vút, ấy hồn người ở tại núi cao). Bá Nha chuyển ý, nghĩ đến cảnh nước chảy, Tử Kỳ lại nói: Dương dương hồ, chí tại lưu thủy (Tiếng đàn khoan nhặt, ấy hồn người tại nơi nước chảy). Bá Nha bèn kết bạn với Tử Kỳ. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn mà rằng "Trong thiên hạ không ai còn được nghe tiếng đàn của ta nữa." Do tích này, hai chữ tri âm (tri: biết, âm: tiếng) được dùng để nói về những người hiểu lòng nhau.
  3. Bạn
    Người bạn gái, thường được dùng để chỉ người mình yêu (phương ngữ Nam Bộ).
  4. An Nam
    Tên gọi của nước ta trong một số giai đoạn lịch sử. Tiêu biểu nhất có lẽ là dưới thời kì đô hộ của thực dân Pháp, khi nước ta bị chia thành ba kỳ.
  5. Cuội
    Một nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam. Chú Cuội (hay thằng Cuội) là một người tiều phu. Cuội có một cây đa thần, lá có khả năng cải tử hoàn sinh. Một hôm vợ Cuội tưới nước bẩn vào gốc cây đa, cây đa trốc gốc bay lên trời. Cuội bám vào rễ đa kéo lại, nhưng cây đa bay lên đến tận cung Trăng. Từ đó trên cung Trăng có hình chú Cuội. (Xem thêm: Sự tích chú Cuội cung trăng).
  6. Tùng bá
    Cây tùng (tòng) và cây bách (bá), trong văn chương thường được dùng để tượng trưng cho những người có ý chí vững mạnh, kiên cường, thẳng thắn.
  7. Một trong những thể loại âm nhạc dân gian, có nguồn gốc từ lao động sông nước, diễn tả tâm tư tình cảm của người lao động. Hò là nét văn hóa đặc trưng của miền Trung và miền Nam. Hò và tuy có phần giống nhau nhưng hò thường gắn liền với với một động tác khi làm việc, còn lý thì không.

    Nghe một bài hò mái nhì.

  8. Canh
    Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
  9. Thục nữ
    Người con gái hiền dịu, nết na (từ Hán Việt).
  10. Châu Trần
    Việc hôn nhân. Thời xưa ở huyện Phong thuộc Từ Châu bên Trung Quốc có thôn Châu Trần, trong thôn chỉ có hai dòng họ là họ Châu và họ Trần, đời đời kết hôn với nhau.

    Thật là tài tử giai nhân,
    Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn.

    (Truyện Kiều)

  11. Tằm
    Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.

    Tằm đang ăn lá dâu

    Tằm đang ăn lá dâu

    Kén tằm

    Kén tằm

  12. Tháng một
    Tháng thứ mười một trong âm lịch, tục gọi là tháng Một (không phải là nói tắt của "tháng Mười Một").
  13. Chạp
    Tháng thứ mười hai âm lịch. Có thuyết cho chạp do đọc trạch từ tiếng Hán lạp nguyệt mà ra.
  14. Lực điền
    Người làm ruộng có sức khỏe.
  15. Cá trê
    Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi.

    Cá trê

    Cá trê

  16. Ba sinh
    Ba kiếp người: kiếp trước, kiếp này và kiếp sau, theo thuyết luân hồi của Phật giáo. Văn học cổ thường dùng chữ "nghĩa ba sinh" hoặc "nguyện ước ba sinh" để nói về sự gắn kết nam nữ.

    Ví chăng duyên nợ ba sinh,
    Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi?

    (Truyện Kiều)

  17. Mạ
    Cây lúa non. Sau khi ngâm ủ thóc giống, người ta có thể gieo thẳng các hạt thóc đã nảy mầm vào ruộng lúa đã được cày, bừa kỹ hoặc qua giai đoạn gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có sức phát triển tốt, sau một khoảng thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa chính.

    Bó mạ

    Bó mạ

    Cấy lúa

    Cấy lúa

  18. Cây lương thực cùng họ với lúa, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, tập trung thành một bông dài.
  19. Thị
    Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được.

    Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng.
    (Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh)

    Quả thị trên cây

    Quả thị

  20. Trôn
    Mông, đít, đáy (thô tục).
  21. Oản
    Bánh làm bằng xôi nếp hoặc bột bánh khảo nén vào khuôn hình nón cụt để cúng.

    Oản làm bằng xôi

    Oản làm bằng xôi

  22. Chuối ngự
    Chuối quả nhỏ, khi chín vỏ rất mỏng, màu vàng, thịt chắc và thơm. Xưa kia giống chuối này được đem tiến vua nên có tên gọi là chuối ngự.

    Chuối ngự

    Chuối ngự

  23. Làng Ngang
    Tên một làng nay thuộc xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
  24. Làng Quài
    Chợ Quài, thuộc xã Thái Hà, Thái Thụy, Thái Bình.
  25. Cá mát
    Một loại cá nước ngọt, mình có từ ba đến sáu chấm đen, vây màu hồng. Cá mát nhỏ con chỉ bằng hai ba ngón tay người lớn. Con to nhất cũng chỉ nặng từ 0,5kg đến 0,8kg. Cá sống từng đàn ở các khe đá và nơi nước chảy xiết, thường bơi kiếm ăn vào ban đêm. Bắt đầu từ tháng 8 âm lịch là mùa cá mát.

    Cá mát vừa lành vừa bổ, thịt thơm ngon, mỡ béo, ít xương, tốt cho sức khỏe. Ở nước ta, cá mát có nhiều ở sông Giăng, Nghệ An, và được xem là đặc sản Nghệ An.

    Cá mát

    Cá mát

  26. Tôm rảo
    Loại tôm nhỏ, cùng họ với tôm he, sống ở vùng nước lợ ven biển, thân hẹp và dài.
  27. Loại cây dây leo được trồng mọc trên giàn để lấy quả. Tương tự như bầu, quả, hoa, hạt và đọt bí được dùng làm thức ăn. Hai loại bí thường gặp nhất là bí xanh (còn gọi là bí đao, bí dài, bí chanh) và bí đỏ (bí rợ).

    Giàn bí đao

    Giàn bí đao

  28. Tê tê
    Còn gọi là con trút (tên gọi dân dã ở miền Trung và miền Nam), thân có lớp vẩy dày. "Vẩy tê tê" là đám mây có dạng như vẩy con tê tê.

    Con tê tê

    Con tê tê

    Mây vẩy tê tê

    Mây vẩy tê tê

  29. Cơn táp
    Cơn gió lốc.
  30. Choòng
    Dụng cụ cầm tay bằng sắt hoặc thép, dùng để đào, bẩy, đục lỗ trong đất, đá.
  31. Hài nhi
    Trẻ thơ, trẻ sơ sinh (từ Hán Việt).
  32. Goòng
    Xe nhỏ có bốn bánh sắt chuyển trên đường ray để chở than, quặng, đất (từ tiếng Pháp wagon).
  33. Cắn chắt
    Cắn ăn hạt lúa (cho vui miệng hoặc đỡ đói).

    Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt
    cười lia dăm hạt cốm
    giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân

    (Người không về - Hoàng Cầm)

  34. Sam
    Một sinh vật biển thuộc bộ giáp xác. Sam thường đi thành cặp ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái, gọi là đôi sam. Dân gian ta có thành ngữ "thương như sam" hoặc "dính như sam."

    Đôi sam

    Đôi sam

  35. Thái thể
    Như thể.
  36. Ăn một, ăn ba, ăn sáu
    Cách tính giá trị của đồng tiền trước đây. Tiền ăn một là một đồng tiền kẽm. Tiền ăn ba có pha đồng thau, có giá trị bằng ba đồng kẽm. Tiền ăn sáu to bản hơn, dày nặng, không thông dụng bằng hai đồng kia.

    Xem thêm bài Một quan tiền tốt mang đi.

  37. Thông Bảo
    通寶, hai chữ thường thấy nhất trên các đồng tiền ngày trước, nghĩa là đồng tiền lưu hành thông dụng. Hai chữ này xuất hiện lần đầu tiên trong tiền Khai Nguyên Thông Bảo do Đường Cao Tổ của Trung Quốc đúc năm 621.
  38. Đà
    Đã (từ cổ, phương ngữ).
  39. Chừ
    Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  40. Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
  41. Thật ra dơi là một loài thú chứ không phải chim.
  42. Diệc
    Một loài chim giống như cò, thức ăn chủ yếu là côn trùng, cá... Diệc mốc có bộ lông màu nâu. Ngoài ra còn có diệc ba màu, diệc xanh...

    Chim diệc đang bắt cá

    Chim diệc đang bắt cá

  43. Bói cá
    Tên chung của một số loài chim săn mồi có bộ lông rất sặc sỡ. Thức ăn chính của bói cá là cá, nhưng chúng có thể ăn cả các động vật nhỏ như ếch nhái, tôm, côn trùng, thằn lằn... Bói cá còn có các tên gọi khác như chim thầy bói, trả, tra trả, sả, thằng chài...

    Chim bói cá

    Chim bói cá

  44. Phướn
    Còn gọi là phượng hoàng đất, một loài chim có đuôi rất dài.

    Phướn đất

    Phướn đất

  45. Bồ câu
    Cũng gọi là chim cu, loài chim có cánh dài, bay giỏi, mỏ yếu, mắt tròn đẹp và sáng, được nuôi làm cảnh và lấy thịt. Nhờ nhớ đường và định hướng rất tốt nên trước đây chúng thường được huấn luyện để đưa thư.

    Chim bồ câu

    Chim bồ câu

  46. Cồng cộc
    Tên gọi miền Nam của chim cốc đế, một loại chim làm tổ trong các rừng ngập mặn đồng bằng sông Cửu Long. Chim có đầu, mào, cổ toàn bộ mặt lưng và đuôi màu đen, cánh xanh lục hay tím đỏ. Thức ăn chủ yếu là cá.

    Chim cồng cộc

    Chim cồng cộc

  47. Cú mèo
    Một loài cú có mắt giống mắt mèo nên có tên vậy. Loài này cũng có tên là cú lợn vì có tiếng kêu giống tiếng lợn. Theo tín ngưỡng dân gian, cú mèo mang lại điềm xui xẻo.

    Cú mèo

    Cú mèo

  48. Nữ nhi
    Con gái nói chung.
  49. Quan
    Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta dùng đến đầu thế kỷ 20. Đối với tiền quý (cổ tiền), một quan bằng 60 tiền (600 đồng kẽm). Với tiền gián (sử tiền), một quan bằng 360 đồng kẽm.
  50. Phượng hoàng
    Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.

    Một hình vẽ chim phượng hoàng

    Một hình vẽ chim phượng hoàng

  51. Xuân Ổ
    Tên Nôm là làng Ó, một làng nay là hai thôn Xuân Ổ A và Xuân Ổ B thuộc phường Bắc Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, xưa thuộc tổng Khắc Niệm, huyện Tiên Du. Hằng năm vào mồng 5 Tết, làng mở hội thờ cúng Thành hoàng và hát quan họ. Chợ làng trước đây gọi là chợ Ó, nay không còn. Trước ngày vào đám, chập tối ngày mùng 4, làng nhóm họp chợ phiên. Phiên chợ Ó vừa tan, nhiều quán trầu của các cụ bà mọc lên, theo đó ''liền anh, liền chị'' mời nhau vào ngồi xơi trầu, rồi bắt đầu cuộc hát (xem thêm).
  52. Quan họ
    Lối hát dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung ở vùng văn hóa Kinh Bắc, tức tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Quan họ được chia làm hai loại: Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe, đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ, không có nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội ở các làng quê. Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ," có nhiều hình thức biểu diễn phong phú hơn, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa, được biểu diễn trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội...

    Năm 2009, cùng đợt với ca trù, quan họ được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế và không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.

    Giã bạn - Người ơi người ở đừng về - Đến hẹn lại lên (Quan họ Bắc Ninh)

  53. Má hồng
    Từ chữ hồng nhan (cũng nói là hường nhan ở Nam Bộ), từ dùng trong văn thơ cổ chỉ người con gái đẹp.

    Phận hồng nhan có mong manh
    Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương

    (Truyện Kiều)

  54. Đấu
    Đồ dùng để đong thóc gạo ngày trước, bằng khoảng một lít hiện nay.
  55. Thưng
    Đồ đo lường, bằng một phần mười cái đấu ("thưng" do chữ "thăng" 升 đọc trạnh ra).

    Thưng bằng đồng

    Thưng bằng đồng

  56. Tiện
    Gọt vòng quanh cho đứt hoặc tạo thành khía.
  57. Tề
    Cắt bớt.
  58. Rượu chát
    Rượu vang, vì có vị chát nên dân ta gọi là rượu chát.
  59. Nhà việc
    Từ cũ, chỉ nơi làm việc của chính quyền địa phương (ban hội tề) tại một làng thời triều Nguyễn và thời Pháp thuộc ở miền Nam nước ta.
  60. Tợ
    Tựa như, giống như (phương ngữ Nam Bộ).
  61. Chi
    Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  62. Nàng nàng
    Một loại cây dại có quả nhỏ màu tím mọc thành chùm, là cây thuốc dùng chữa cảm nắng, cảm hàn, thương thực, nôn cả ra máu, no hơi đầy bụng, kém ăn, mụn nhọt... Nhân dân thường dùng toàn cây sắc nước cho phụ nữ sau khi sinh đẻ uống để ăn ngon cơm. Thân lá tán bột uống giải nhiệt, giảm đau. Hạt sắc uống làm sáng mắt.

    Nàng nàng

    Nàng nàng

  63. Thù lù
    Còn có các tên là lồng đèn, tầm bóp, ở miền Trung gọi là lụp bụp (có thể đọc trại thành bụp bụp hay bợp bợp), một loại cây mọc hoang, cho quả mọng tròn, nhẵn, lúc non màu xanh, khi chín có màu hơi đỏ, bên trong chứa nhiều hạt, bên ngoài có một lớp vỏ mỏng bao trùm như cái lồng đèn. Trẻ em thường bóp vỏ để ăn quả bên trong (tên lụp bụp có lẽ bắt nguồn từ âm thanh phát ra khi làm việc này). Lá cây dùng làm rau ăn và làm thuốc chữa một số bệnh.

    Quả lụp bụp

    Quả lụp bụp

  64. Thời
    Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
  65. Rau dền
    Một loại rau có tính mát, giàu sắt, là món ăn dân dã phổ biến với người Việt Nam. Ở Việt Nam chủ yếu có hai loại rau dền là dền trắng và dền đỏ (tía). Rau dền thường được luộc hay nấu canh.

    Rau dền đỏ

    Rau dền đỏ

  66. Rau má
    Một loại cây thân thảo ngắn ngày, thường được trồng để ăn tươi hoăc sắc lấy nước uống. Nước rau má có tác dụng giải độc, hạ huyết áp, làm mát cơ thể. Lá rau má hình thận, nhỏ bằng đồng xu.

    Rau má

  67. Cỏ gà
    Còn có các tên khác là cỏ chỉ, cỏ ống, một loại cỏ sinh trưởng rất mạnh, bò kết chằng chịt với nhau thành thảm dày đặc. Trẻ em ở nông thôn có trò chơi đơn giản từ cỏ gà gọi là "chọi cỏ gà" hay "đá cỏ gà."

    Cỏ gà

    Cỏ gà

  68. Củ gấu
    Cũng gọi là cỏ gấu hoặc cỏ cú, một loại cỏ thân cao, có nhiều củ màu nâu đỏ sẫm. Củ gấu có thể dùng làm vị thuốc dân gian, nhưng cũng là một loài cỏ rất có hại đối với nhà nông vì rất khó diệt trừ.

    Củ gấu

    Củ gấu

  69. Thật ra đây chính là cái áo tơi.
  70. Nón cời
    Nón lá rách, cũ.

    Đội nón cời

    Đội nón cời

  71. Nhất nhật bất kiến như tam thu hề
    Trích từ bài Thái Cát thuộc Kinh Thi. Câu đầy đủ là:

    Bỉ thái tiêu hề,
    Nhất nhật bất kiến
    Như tam thu hề.

    Nghĩa là: Người đi cắt cỏ tiêu, một ngày không thấy nhau, tựa như ba thu (chín tháng) chưa gặp.

  72. Huống chi ba mùa thu đã trôi qua mà không hề gặp mặt (nghĩa Hán Việt).
  73. Cầu thượng gia
    Tên đầy đủ là "thượng gia hạ kiều," một cấu trúc cầu có phía trên là nhà, phía dưới là cầu, thường gặp nhất ở các tỉnh Bắc Bộ. Cầu thường là nơi nối liền đôi bờ giữa khung cảnh có cây cao, bóng cả, lòng sông vừa phải, thuận tiện thi công vòm trụ, mái cầu giúp người bộ hành khi vào cầu có thể trú mưa, tránh nắng, an toàn như mái nhà của mình. Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan được cho là người tạo nên kiến trúc cầu này.

    Cầu thượng gia

    Cầu thượng gia

  74. Nguyệt Lão
    Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.

    Ông Tơ Nguyệt

    Ông Tơ Nguyệt

  75. Giá thú bất luận tài
    Cưới xin không cần bàn đến tiền bạc (thành ngữ Hán Việt).