Tôi Đà Phật, nàng A men
Hai ta tôn giáo cách hai miền xa xăm
Bỗng đâu gió bão mưa dầm
Để tôi buộc mối đồng tâm với nàng
Thế là đeo lấy dở dang
Bỏ nhau chẳng được, sang ngang không thuyền
Biết rằng duyên lỡ làng duyên
Trăm năm để lại một thiên hận tình
Bảo cho những kẻ đầu xanh
Đến nơi đến tháng cầu kinh thì cầu
Đừng mơ những việc đâu đâu
Mà vương phải kiếp cú sầu vạn niên
Tìm kiếm "đi chợ"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Dì thằng cu như cánh hoa nhàiDì thằng cu như cánh hoa nhài 
 Ba mươi sáu cánh tiếc tài nở đêm
 Sáng trăng trong sáng cả ngoài thềm
 Lại đây ta chắp áo mền đắp chung
 Đêm đông thắp ngọn đèn lồng
 Mình về có nhớ ta không hỡi mình
 Chiếc thuyền nan anh giậm thình thình
 Anh thì cầm lái cô mình phách ba
 Có thương anh bẻ mái chèo ra
 Sợ mẹ bằng biển sợ cha bằng trời
 Anh thấy em anh cũng ưa đời
 Biết rằng chốn cũ có rời ra chăng.
- 
        
        
        
    
    Đầu làng có một cây đaĐầu làng có một cây đa 
 Cuối làng cây thị, ngã ba cây dừa
 Dầu anh đi sớm về trưa
 Anh cũng nghỉ mát cây dừa nhà tôi
 Anh vào anh chẳng đứng chẳng ngồi
 Hay là anh phải duyên tôi anh buồn
 Anh buồn anh chẳng muốn đi buôn
 Một vốn bốn lãi anh buồn làm chi
 Tôi là con gái nhỡ thì
 Chẳng thách tiền cưới làm chi bẽ bàng
 Rượu hoa chỉ lấy muôn quan
 Trâu bò chín chục họ hàng ăn chơi
 Vòng vàng chỉ lấy mười đôi
 Nhiễu tàu trăm tấm tiền rời một muôn
 Nào là của hỏi của han
 Ấy tiền dẫn cưới anh toan thế nào?Dị bản- Đầu làng có một cây đa 
 Cuối làng cây thị, ngã ba cây dừa
 Dù anh đi sớm về trưa
 Xin anh nghỉ bóng mát cây dừa nhà em!
 
- 
        
        
        
    
    Đi ô chẳng biết cầm ôĐi ô chẳng biết cầm ô 
 Thà rằng đội váy bà đồ cho xong!
- 
        
        
        
    
    Đi ra gặp chị, đi vô gặp chịĐi ra gặp chị, đi vô gặp chị 
 Thiên hạ đồn mị, tôi với chị là vợ với chồng
 Ngó lên mây trắng trời hồng,
 Ngẫm tôi với chị vợ chồng xứng đôiDị bản- Tui đi lên tui gặp chị 
 Tui đi xuống, tui cũng gặp chị
 Người ta đồn mộng đồn mị
 Đồn chị với tui là hai vợ chồng
 Hôm nay gặp giữa chợ đông
 Kéo tay chị lại, tui hỏi: bây giờ tính sao?
 
- 
        
        
        
    
    Đi đêm thì sợ đường lầy
- 
        
        
        
    
    Đi cầu đi quánĐi cầu đi quán 
 Đi bán lợn con
 Đi mua cái xoong
 Đem về đun nấu
 Mua quả dưa hấu
 Về biếu ông bà
 Mua một đàn gà
 Về cho ăn thóc
 Mua lược chải tóc
 Mua cặp gài đầu
 Đi mau về mau
 Kẻo trời sắp tối
- 
        
        
        
    
    Đi lên đi xuống cầu dừa
- 
        
        
        
    
    Đi đâu lang chạ thì hưĐi đâu lang chạ thì hư 
 Ở đây với dượng cũng như có chồng
 Chưa chồng dượng kiếm chồng cho
 Chưa con dượng kiếm con cho mà bồng
- 
        
        
        
    
    Đi qua đi lại hàng dừaĐi qua đi lại hàng dừa 
 Lấy ai có chửa đổ thừa cho tôi
- 
        
        
        
    
    Đi vô gặp em bán trầu
- 
        
        
        
    
    Đi đâu có anh có tôiĐi đâu có anh có tôi 
 Người ta mới biết là đôi vợ chồng
- 
        
        
        
    
    Đi đâu mang sách đi hoài
- 
        
        
        
    
    Đi đàng phải bịt khăn đen
- 
        
        
        
    
    Đi thì sợ gai mồng tơi
- 
        
        
        
    
    Em đi lên xuống cầu dừaEm đi lên xuống cầu dừa 
 Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh
- 
        
        
        
    
    Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
- 
        
        
        
    
    Anh đi em có dặn rằngAnh đi em có dặn rằng 
 Đâu hơn anh lấy đâu bằng chờ em.
- 
        
        
        
    
    Ra đi anh có dặn dò
- 
        
        
        
    
    Anh đi lưới quát, lưới mành
Chú thích
- 
    - Nam mô A Di Đà Phật
- Câu niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, một phép tu hành được sử dụng trong Phật giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông.
 
- 
    - A-men
- Một từ mà người theo đạo Chúa (Công giáo, Tin Lành...) thường nói khi kết thúc một bài kinh, có thể dịch thành "Thật vậy" hoặc "Xin được như nguyện."
 
- 
    - Chữ đồng
- Từ cụm từ Hán Việt "đồng tâm đái," hoặc "dải đồng," chỉ sợi thắt lưng ngày xưa có hai dải lụa buộc lại với nhau. Văn chương cổ dùng từ "chữ đồng" hoặc "đạo đồng" để chỉ sự kết nguyền chung thủy của vợ chồng.
Đã nguyền hai chữ đồng tâm 
 Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Đầu xanh
- Chỉ người tuổi còn trẻ.
Hay là thuở trước khách hồng nhan? 
 Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.
 Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
 Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
 (Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà)
 
- 
    - Nhài
- Còn gọi là lài, loại cây nhỏ có hoa màu trắng rất thơm. Nhân dân ta thường dùng hoa lài để ướp trà.
 
- 
    - Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
 
- 
    - Thị
- Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được.
Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng. 
 (Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh)
 
- 
    - Muôn
- Mười nghìn (từ cũ), đồng nghĩa với vạn.
 
- 
    - Nhiễu
- Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát.
 
- 
    - Dẫn cưới
- Đưa lễ đến nhà gái để xin cưới.
 
- 
    - Thiên hạ
- Toàn bộ mọi vật, mọi người. Đây là một khái niệm có gốc từ Trung Quốc (thiên 天 (trời) hạ 下 (ở dưới), nghĩa đen là "dưới gầm trời").
"Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ." (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân) 
 
- 
    - Vân vi
- Đầu đuôi câu chuyện, đầu đuôi sự tình (từ cũ).
 
- 
    - Cầu khỉ
- Loại cầu đặc trưng của vùng sông nước Tây Nam Bộ. Cầu rất đơn sơ, thường làm bằng thân tre (gọi là cầu tre), thân dừa (cầu dừa) hoặc cây gỗ tạp, bắt ngang qua kênh rạch. Cầu khỉ có thể có hoặc không có tay vịn, nhưng đều chỉ cho một người đi. Người ta hình dung chỉ có những con khỉ hay leo trèo mới có thể đi được, nên đặt tên là cầu khỉ. Một ý kiến khác lại cho rằng chính dáng người đi lom khom như con khỉ của khách bộ hành là nguồn gốc của cái tên này.
 
- 
    - Song đường
- Thung đường và huyên đường, chỉ cha và mẹ (từ Hán Việt).
 
- 
    - Mai dong
- Người làm mai, được xem là dẫn (dong) mối để trai gái đến với nhau trong việc hôn nhân (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Tường
- Rõ ràng, hiểu rõ, nói đủ mọi sự không thiếu tí gì. Như tường thuật 詳述 kể rõ sự việc, tường tận 詳盡 rõ hết sự việc (Thiều Chửu).
 
- 
    
- Có bản chép: trắp.
 
- 
    
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Nhứt Trò.
 
- 
    - Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Điều
- Một loại cây nhỏ cho quả có nhiều lông, màu đỏ, trong có nhiều hạt nhỏ. Từ hạt điều chiết xuất được một chất màu vàng đỏ (gọi là màu điều), được dùng để nhuộm vải. Vải được nhuộm điều thường gọi là vải điều.
 
- 
    
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Cửu Điều.
 
- 
    - Mồng tơi
- Một số địa phương phát âm thành "mùng tơi" hay "tầm tơi", loại dây leo quấn, mập và nhớt. Lá và đọt thân non của mồng tơi thường được dùng để nấu canh, ăn mát và có tính nhuận trường. Nước ép từ quả dùng trị đau mắt.
 
- 
    - Ngậm hột thị
- Ấp úng, nói không thành tiếng, không nên lời, thường vì lúng túng hay sợ hãi, giống như ngậm hạt thị trong mồm.
 
- 
    - Hội An
- Một địa danh thuộc tỉnh Quảng Nam, nay là thành phố trực thuộc tỉnh này. Trong lịch sử, nhất là giai đoạn từ thế kỉ 15 đến thế kỉ 19, Hội An từng là một hải cảng rất phồn thỉnh. Hiện nay địa danh này nổi tiếng về du lịch với phố cổ cùng các ngành truyền thống: mộc, gốm, trồng rau, đúc đồng... Hội An còn được gọi là phố Hội hoặc Hoài Phố, hay chỉ ngắn gọi là Phố theo cách gọi của người địa phương.
 
- 
    - Chùa Cầu
- Tên một cây cầu đồng thời cũng là một ngôi chùa cổ ở Hội An. Cầu được các thương nhân người Nhật góp tiền xây dựng vào thế kỉ 17 (nên còn được gọi là cầu Nhật Bản), bắc ngang qua một lạch nước nhỏ chảy ra sông Thu Bồn. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, từ đó người dân gọi là Chùa Cầu. Chùa Cầu là một biểu tượng văn hóa - du lịch của Hội An.
 
- 
    - Vãng lai
- Đi lại (từ Hán Việt).
 
- 
    - Ruộng gò
- Ruộng làm ở chỗ đất gò, đất cao.
 
- 
    - Chiêm
- (Lúa hay hoa màu) gieo cấy ở miền Bắc vào đầu mùa lạnh, khô (tháng mười, tháng mười một) và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều (tháng năm, tháng sáu), phân biệt với mùa. Đây cũng là cách gọi tắt của "lúa chiêm." Theo sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, người Việt trước đây đã học cách trồng một số giống lúa gieo vào mùa đông, thu hoạch vào mùa hạ từ người Chiêm Thành, nên gọi là lúa chiêm hay lúa chăm.
 
- 
    
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Bừa
- Nông cụ dùng sức kéo để làm nhỏ, làm nhuyễn đất, san phẳng ruộng hoặc làm sạch cỏ, có nhiều răng để xới, làm tơi đất. Bừa thường được kéo bởi người, trâu bò, ngựa, hoặc gần đây là máy kéo.
 
- 
    - Cày
- Nông cụ dùng sức kéo của trâu, bò hay của máy cày, để xúc và lật đất. Cày gồm hai bộ phận chính: Lưỡi cày (ban đầu làm bằng gỗ, sau bằng sắt hoặc thép) và bắp cày bằng gỗ. Nếu cày bằng trâu bò, lại có thêm gọng cày nối từ bắp cày chạy dài đến ách để gác lên vai trâu, bò.
 
- 
    - Tấc
- Đơn vị đo chiều dài. Một tấc ngày trước bằng 1/10 thước hoặc bằng 10 phân (tương đương 4 cm bây giờ), nay được chuyển thành 1/10 mét.
 
- 
    - Lưới quát
- Loại lưới đánh cá có giàn lưới lớn hình ống có cánh hai bên để vây bắt cá. Khi kéo lưới vào gần bờ, một người lặn tóm chân chì và tóm hai đầu lưới rồi kéo lên ghe (thuyền).
 
- 
    - Lưới mành
- Loại lưới đánh cá biển truyền thống của các tỉnh Nam Bộ, chủ yếu dùng để khai thác các loài cá nổi như cá chim, trích, nục, cơm, bạc má, chỉ vàng...
 
- 
    - Cá lăng tiêu
- Một loại cá thu nhỏ, có vân hoa.
 
- 
    - Cá bạc má
- Một loại cá biển, sống thành đàn, có thân hình thuôn dài, hơn dẹt sang hai bên. Đây là một trong những loại cá được đánh bắt nhiều ở nước ta, và được chế biến thành rất nhiều món ăn.
 













