Thấy anh Hai tuồng chữ cũng thông
Vô đây em hỏi anh, Bao Công mặt gì?
– Ông Bao Công mặt đỏ, môi chì
Anh giờ đối đặng em tính gì cho đây?
Tìm kiếm "thày, học"
-
-
Thầy có của, sãi có công
-
Thầy mẹ đánh thiếp đàng trước, thiếp chạy ngõ sau
-
Thấy sương mà thương cho chè
-
Thấy em đẹp nói đẹp cười
Thấy em đẹp nói đẹp cười,
Đẹp người đẹp nết lại tươi răng vàng.
Vậy nên anh gửi thư sang,
Bởi lòng anh quyết lấy nàng mà thôi.Dị bản
-
Thấy bở thì đào, thấy mềm thì đục
Thấy bở thì đào, thấy mềm thì đục
-
Thương thay thân phận con rùa
-
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần than rơmDị bản
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vò nước đục lại vần lửa rơm
-
Thương thay thân phận con tằm
-
Tiếc thay cái giếng nước trong
-
Tiếc thay cái đọi bịt vàng
-
Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu
Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu
Đến khi hùm dậy, đầu lâu chẳng còn -
Chớ thấy áo rách mà cười
-
Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
Dị bản
Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo
-
Chớ thấy sóng cả mà lo
Chớ thấy sóng cả mà lo
Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng -
Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ
Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ
-
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Dị bản
-
Em thấy anh, em cũng muốn chào
Em thấy anh, em cũng muốn chào
Sợ anh chồng cũ đứng bờ rào, hắn trông
– Hắn trông thì mặc hắn trông
Ðã quyết một lòng ta quyết lấy nhau -
Chớ thấy duyên muộn mà phiền
Chớ thấy duyên muộn mà phiền
Tuy rằng duyên muộn, có tiên đợi chờ -
Thương thay con cuốc giữa trời
Chú thích
-
- Tuồng
- Có vẻ.
-
- Bao Công
- Tên thật là Bao Chửng, cũng gọi là Bao Thị Chế, Bao Hắc Tử, làm quan dưới thời Tống Nhân Tông, Trung Quốc. Ông nổi tiếng thanh liêm, nghiêm minh, được nhân dân suy tôn là Bao Thanh Thiên (trời xanh). Hình tượng Bao Công trong dân gian được khắc họa là một người mặt đen, trán có hình trăng lưỡi liềm, được nhiều người tài như Công Tôn Sách, Triển Chiêu, Vương Triều, Mã Hán, Trương Long, Triệu Hổ theo phò tá. Tuy nhiên, đa số những chi tiết này không có thật trong lịch sử.
-
- Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
-
- Sãi
- Người đàn ông làm nghề giữ chùa.
-
- Can trường
- Cũng đọc là can tràng, nghĩa đen là gan (can) và ruột (trường), nghĩa bóng chỉ nỗi lòng, tâm tình.
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
(Truyện Kiều)
-
- Há dễ
- Không dễ dàng gì (từ cổ).
Làm ơn há dễ mong người trả ơn (Lục Vân Tiên)
-
- Chè
- Cũng gọi là trà, tên chung của một số loại cây được trồng lấy lá nấu thành nước uống. Một loại có thân mọc cao, lá lớn và dày, có thể hái về vò nát để nấu uống tươi, gọi là chè xanh. Loại thứ hai là chè đồn điền du nhập từ phương Tây, cây thấp, lá nhỏ, thường phải ủ rồi mới nấu nước, hiện được trồng ở nhiều nơi, phổ biến nhất là Thái Nguyên và Bảo Lộc thành một ngành công nghiệp.
-
- Chữ điền
- Chữ 田 (ruộng). Mặt chữ điền tức là mặt cương nghị (nam) hoặc phúc hậu (nữ).
-
- Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
-
- Hạc
- Loại chim cổ cao, chân và mỏ dài. Trong Phật giáo và văn chương cổ, hạc tượng trưng cho tuổi thọ hoặc tính thanh cao của người quân tử. Trước cửa các điện thờ thường có đôi hạc đá chầu.
Đỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc
Gót Nam Du nhẹ bước tang bồng
(Nhị thập tứ hiếu)
-
- Bèo tấm
- Loại bèo có lá nhỏ, hay phát triển thành thảm bèo trên các ao hồ ở làng quê Việt Nam, nhất là miền Bắc.
-
- Bèo ong
- Còn gọi là bèo tai chuột, lá mọc thành cụm dày, cuộn lại dọc theo sống lá như tổ ong. Nhân dân ta thường băm bèo ong cho lợn ăn.
-
- Đọi
- Cái chén, cái bát (phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ).
-
- Cả
- Lớn, nhiều (từ cổ).
-
- Quế
- Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý (Quế chi) trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ.
-
- Mán, Mường
- Tên gọi chung các dân tộc thiểu số miền núi (thường mang nghĩa miệt thị).
-
- Bài ca dao này nhắc đến việc công chúa Huyền Trân bị gả cho vua Chiêm Thành để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Đọc thêm về công chúa Huyền Trân.
-
- Châu Thường
- Một địa danh nằm ở miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hoá, nay là huyện Thường Xuân, là nơi cư trú của ba dân tộc Thái - Mường - Kinh. Vùng này trồng rất nhiều cây quế.