Ăn Tiền Hải, cãi Kiến Xương
Dở dở ương ương là dân Quỳnh Phụ
Lử khà lử khử là dân Đông Hưng
Ăn nói lừng khừng là dân thị xã
Thái độ lèo lá chính hiệu Vũ Thư
Phong thái hiền từ là người Thái Thụy
Người ta sang sông, em cũng sang sông,
Người ta sang sông thành được vợ chồng,
Em sang không rồi lại xách nón về không,
Trước là thẹn thùng với bầu bạn, sau luống công ông chèo đò.
Cải lên ba lá ai nỡ ngắt ngồng
Lỡ thời chịu lỡ, lấy chồng làm chi
Bạn có biết?
Một nét đặc trưng của ca dao Nam Bộ là hay dùng điển tích, điển cố. Điển tích, điển cố trong ca dao Nam Bộ có thể bắt nguồn từ tích truyện Trung Quốc (Lưu Bị, Quan Vũ, Tào Tháo...) hoặc những truyện thơ, tích tuồng như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Đổng Kim Lân, Phạm Công - Cúc Hoa... Xem một số bài sử dụng điển tích, điển cố trong kho tàng ca dao Nam Bộ.
Câu tục ngữ có ý cho rằng hai hạng người này đều có thừa tư cách chuyên nghiệp. Mà tư cách chuyên nghiệp ở một gái hàng cơm chỉ có nghĩa là lắm điều, đáo để và có thể rằng tùy từng trường hợp đôi mắt biết đưa tình. (Tranh tối tranh sáng - Triều Đẩu, 1952)
Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (1991-1997). Cùng với người tiền nhiệm là Nguyễn Văn Linh, ông đóng vai trò rất lớn trong các chính sách đối nội và đối ngoại của Việt Nam thời kì đổi mới, đồng thời góp phần giữ vững vị thế của Đảng Cộng sản sau khi Liên Xô sụp đổ.
Tháng 5 năm 1981, Hải Phòng xảy ra vụ cháy kho 5 (kho vải, một mặt hàng rất quan trọng trong thời bao cấp). Sau vụ đó, Hải Phòng "được" cấp cho số vải bị cháy dở, hoặc đã bị vòi cứu hỏa phun nước và hóa chất vào.
Miền Trung và miền Nam gọi là bánh tráng, miền Bắc gọi là bánh đa. Đây một dạng loại bánh làm từ bột gạo, tráng mỏng, phơi khô, khi ăn có thể nướng giòn hoặc ngâm sơ với nước cho mềm để cuốn các thức ăn khác. Ngoài ra, bánh tráng còn có thể được làm với các thành phần khác để tạo thành bánh tráng mè, bánh tráng đường, bánh tráng dừa... mỗi loại có hương vị khác nhau.
Một địa danh thuộc miền duyên hải Nam Bộ. Vùng đất này từ xưa đã là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau: người Hoa, người Việt, người Khmer, người Chăm... Tên gọi “Bạc Liêu,” đọc giọng Triều Châu là "Pô Léo," có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Ý kiến khác lại cho rằng "Pô" là "bót" hay "đồn," còn "Liêu" có nghĩa là "Lào" (Ai Lao) theo tiếng Khmer, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người Lào. Người Pháp thì căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu mà gọi vùng đất này là Pêcherie-chaume có nghĩa là "đánh cá và cỏ tranh."
Bình luận