Vàng mười, bạc bảy, thau ba
Dị bản
Vàng mười, bạc bảy, thau ba
Đồng đen trinh tiết lại pha lộn chì
Vàng mười, bạc bảy, thau ba
Đồng đen trinh tiết lại pha lộn chì
Mười ngón tay
Ngón đi cày
Ngón tát nước
Ngón cầm lược
Ngón chải đầu
Ngón đi trâu
Ngón đi cấy
Ngón cầm bẫy
Ngón đánh cò
Ngón chèo đò
Ngón dò biển
Tôi ngồi tôi đếm
Mười ngón tay
Ngón đi cày…
Trách người một, trách ta mười
Bởi ta bạc trước cho người tệ sau.
Biết tay ăn mặn thì chừa
Đừng trêu mẹ mướp mà xơ có ngày
Văn minh đèn điện sáng lòe
Thông thương kĩ nghệ mọi bề chấn hưng
Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng
Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng
Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng
Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau
Chẳng nên cơm cháo gì
Anh cất nhà năm ba cái cửa
Lấy vợ này vợ nữa cũng xong
Còn tiền chán vạn người mời
Hết tiền anh đứng trông trời thở than
Sông kia nước chảy lờ đờ
Con thuyền lững thững với trăng mờ nào soi
Con sông bên lở bên bồi
Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm
Bao giờ gió đứng, sóng êm
Thuyền anh xuôi ngược qua đêm lại về
Với em anh trót nặng lời thề.
Biết nhau từ thuở buôn thừng
Trăm chắp nghìn nối xin đừng quên nhau
Chẳng chữa thì sống, chữa thì kèn trống ra đồng
Trong văn hóa Trung Quốc, ông Bành Tổ được xem là biểu tượng cho sự trường thọ.
Lờ có nhiều loại: Loại đại dài từ 0,5 đến 1 m, gọi là “lờ bầu”, thả chỗ nước sâu như sông, hồ để bắt cá diếc, sảnh, dầy. Loại tiểu gọi là “lờ đồng”, thả nơi nước cạn như ao, đìa, ruộng bắt cá trê, rô, sặc, mương, nhét…