Trầu không ăn vôi ắt là trầu nhạt
Cau khô hạt ắt miếng cau già
Mình không lấy ta ắt là mình thiệt
Ta không lấy mình ta biết lấy ai?
Ngẫu nhiên
-
-
Hút điếu thuốc lào nâng cao sĩ diện
-
Trên trời có đám mây xanh
Trên trời có đám mây xanh
Có con ngựa bạch chạy quanh gầm trời
Đôi ta muốn lấy nhau chơi
Cái duyên không định, ông trời không xe
Những nơi chết rấp bờ tre
Cái duyên cứ định trời xe em vào
Ba đồng một sợi chỉ đào
Áo gấm không vá, vá vào áo tơi
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi
Biết rằng lên ngược xuống xuôi cũng đành -
Vợ ở mô thủ đô ở đó
-
Ngỡi nhân nay giận mai hờn
-
Sây sim đại hạn
Dị bản
-
Nhớ hàng tre thẳng đọt măng
-
Khi xưa một hẹn thì nên
Khi xưa một hẹn thì nên
Bây giờ chín hẹn em quên cả mườiDị bản
-
Ngó lên tấm sáo em đánh bạo đề thơ
Ngó lên tấm sáo em đánh bạo đề thơ
Anh về cưới vợ, đừng chờ
Tuổi em còn nhỏ, còn dại còn khờ
Để cho cha mẹ em nhờ đôi nămDị bản
-
Em thác ba năm xương tàn cốt rụi
-
Chàng nhìn thiếp rưng rưng hột lụy
-
Anh em như chân với tay
Anh em như chân với tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đầnDị bản
Anh em như chân như tay
Vợ chồng như áo, cởi ngay tức thì
-
Thịt lợn thì nấu hành hoa
-
Căng da bụng, chùng da mắt
Căng da bụng,
Chùng da mắt -
Ai không ăn gai đầu mùa là dại, ai không ăn mít trái mùa là ngu
-
Đế quốc Mỹ: Tội ác không dung, đồ dùng rất tốt
Đế quốc Mỹ: Tội ác không dung, đồ dùng rất tốt
-
Bụt còn co quắp ngón tay
-
Sụt sùi lụy ứa thấm bâu
-
Cò quăm lấy ở dưới đầm
-
Cờ ngoài bài trong
Chú thích
-
- Ắt
- Chắc chắn.
-
- Thuốc lào
- Theo học giả Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữ và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo (cỏ nhớ thương), vì người nghiện thuốc lào mà hai, ba ngày không được hút thì trong người luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu, trong đầu luôn luôn nghĩ đến một hơi thuốc, giống như nhớ người yêu lâu ngày không gặp. Thời xưa, ngoài "miếng trầu là đầu câu chuyện," thuốc lào cũng được đem ra để mời khách. Hút thuốc lào (cũng gọi là ăn thuốc lào) cần có công cụ riêng gọi là điếu.
Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào.
-
- Ngựa bạch
- Ngựa trắng.
-
- Rấp
- Chôn vùi đi không thấy nữa.
-
- Áo tơi
- Áo khoác dùng để che mưa nắng. Áo được làm bằng lá cây (thường là lá cọ) hoặc rơm rạ, khâu chồng thành lớp gối lên nhau dày hàng đốt tay, như kiểu lợp ngói, đánh thành tấm, phía trên có dây rút để đeo vào cổ giữ áo cố định trên lưng.
-
- Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Nhân ngãi
- Người thương, người tình (từ cổ). Cũng nói nhân ngãi, ngỡi nhân.
-
- Đờn
- Đàn (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Sây
- (Cây) sai (hoa, quả).
-
- Sim
- Loại cây thân gỗ nhỏ, mọc hoang nhiều ở các vùng đồi núi, cho hoa màu tím, quả khi chín có thịt màu tím đậm, vị ngọt chát. Theo Đông y, tất cả các bộ phận của cây đều có thể dùng làm thuốc.
-
- Răng đen
- Người xưa có phong tục nhuộm răng đen. Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2002, trang 511, nói về nhuộm răng như sau:
"Phong tục người Việt cổ coi răng càng đen càng đẹp. Trước khi nhuộm đen phải nhuộm đỏ. Thuốc nhuộm răng đỏ là cánh kiến đỏ trộn với rượu rồi đun quánh như bột nếp. Quét bột này lên mảnh lá chuối hột ấp vào răng trước khi đi ngủ. Làm nhiều lần cho đến khi hàm răng bóng ánh nổi màu cánh gián. Thuốc nhuộm đen: phèn đen, vỏ lựu khô, quế chi, hoa hồi, đinh hương nghiền nhỏ, hòa giấm hoặc rượu, đun cho quánh như hồ dán. Quét lên lá chuối đắp lên răng như nhuộm đỏ. Từ 5 đến 7 ngày thuốc mới bám vào răng, nổi màu đen thẫm rồi đen bóng. Súc miệng bằng nước cốt dừa. Kiêng ăn thịt mỡ, cua cá, vật cứng, nóng. Có khi chỉ nuốt cơm hoặc húp cháo. Kể cả nhuộm đỏ và đen, thời gian kéo dài đến nửa tháng."
-
- Sáo
- Còn gọi là mành sáo, là tấm đan bằng tre, có nan to, thường treo trước nhà hoặc gần cửa sổ để che nắng. Sáo cũng có thể được treo trước bàn thờ.
-
- Biểu
- Bảo (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
-
- Thác
- Chết, mất, qua đời (từ Hán Việt).
-
- Con nhạc bạch: Con chim nhạn màu trắng.
-
- Nói
- Hỏi cưới (phương ngữ).
-
- Lụy
- Nước mắt (phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ).
-
- Giọt châu
- Giọt lệ, giọt nước mắt.
-
- Tru
- Trâu (phương ngữ một số vùng Bắc Trung Bộ).
-
- Ga
- Gà (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Dứa
- Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá.
-
- Mít
- Loại cây ăn quả thân gỗ nhỡ, lá thường xanh, cao từ 8-15m. Cây ra quả vào mùa xuân, quả chín vào mùa hè. Vỏ quả có gai xù xì, ruột chứa nhiều múi, vị ngọt, có loại mít dai và mít mật. Mít là loại cây quen thuộc ở làng quê nước ta, gỗ mít dùng để làm nhà, đóng đồ đạc, thịt quả để ăn tươi, sấy khô, làm các món ăn như xôi mít, gỏi mít, hạt mít ăn được, có thể luộc, rang hay hấp, xơ mít dùng làm dưa muối (gọi là nhút), quả non dùng để nấu canh, kho cá...
-
- Bụt
- Cách gọi dân gian của Phật, bắt nguồn từ cách phiên âm từ Buddha (bậc giác ngộ - Phật) trong tiếng Ấn Độ.
-
- Bâu
- Cổ áo.
-
- Cò quăm
- Còn gọi là cò quắm, một họ cò có mỏ dài và cong về phía trước. Cò quăm thường gặp ở các vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long.
-
- Củ ấu
- Một loại củ có vỏ màu tím thẫm, có hai sừng hai bên, được dùng ăn độn hoặc ăn như quà vặt.
-
- Cờ ngoài bài trong
- Khi đánh cờ (tướng) phải bày các con cờ ra cho đối thủ thấy, ngược lại khi đánh bài phải giấu các quân bài của mình đi.