Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần than rơm
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Dị bản
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vò nước đục lại vần lửa rơm
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần than rơm
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vò nước đục lại vần lửa rơm
Cái bần là cái chi chi
Làm cho thân thích lưu li vì bần
Cái bần là cái tần ngần
Làm cho bạn hữu đang gần lại xa
Cái bần là cái xót xa
Làm cho vay một trả ba không rồi
Cái bần là cái lôi thôi
Làm cho quân tử đứng ngồi bất an
Cái bần là cái dở dang
Làm cho trăm mối ngổn ngang vì bần
Xưa nay tạo hóa xoay vần
Hết bần lại phú chẳng cần chi đâu.
Dù xa vạn dặm cũng xa
Dù gần Vĩnh Điện La Qua cũng gần
Cá sầu, cá trở đầu đuôi
Người sầu lên ngược, xuống xuôi vẫn sầu.
Chàng ơi thiếp có lỗi lầm
Xin chàng đóng cửa âm thầm dạy nhau.
Mát lòng mát dạ
Em ơi thân thể anh đây
Lờ đờ mắt lớn, tối ngày sáng đêm
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng.
(Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh)