Nàng khoe tam cúc nàng cao,
Nên tôi hân hạnh được vào dự chơi.
Ba cô ngồi ở ba nơi,
Với tôi là bốn, đều ngồi khang trang.
Thoạt đầu đảo đảo, trang trang,
Bắt cái tam tịnh cái nàng gần tôi.
Sau khi bài đã chia rồi,
Mỗi người có tám cây bài trên tay.
Cầm bài tôi liếc thấy ngay,
Có hai tốt đỏ lại vầy tốt đen.
Kế đến là đôi xe đen,
Bộ ba tướng trắng còn kèm trên tay.
Bài tốt tôi giục gọi ngay,
Cô nàng gọi “một” đánh ngay sĩ điều.
Được rồi nàng gọi tiếp “đôi,”
Đánh đôi mã đỏ rồi ngồi đợi xem.
Lá này tôi ra xe đen,
Bắt đôi mã đỏ làm nàng xuýt xoa.
Được rồi tôi mới gọi “ba,”
Tướng sĩ tượng đỏ nàng ra bắt liền.
Bắt rồi hạ kết tốt đen,
Cả làng xúm lại để xem bài này.
Trách em bé, đứng cạnh tay,
Tánh nết nhanh nhảu, nói ngay một lời.
Sao bác dại thế bác ơi,
Có đôi tốt đỏ toan chui không đè.
Không dè, làng cũng không nghe,
Nàng đành phải chịu tôi đè tốt đen.
Bây giờ sự đã quả nhiên,
Nàng đành móc túi, xỉa tiền ra chung.
Ngẫu nhiên
-
-
Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi
-
Nhìn nàng, lụy nhỏ thấm bâu
-
Thôi thôi từ giã bạn vàng
-
Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng
Thuốc đắng dã tật,
Sự thật mất lòng -
Trâu ta ăn cỏ đồng ta
-
Một lần gặp, năm bảy tháng lìa
-
Vợ thằng Chệch
-
Mẹ em tham ruộng đầu cầu
-
Ai về Cà Đó
-
Con cá làm ra con mắm
-
Đường dài ngựa chạy cát bay
-
Sương sa ướt lá bìm bìm
-
Sang chơi thì cứ mà sang
Sang chơi thì cứ mà sang
Đừng bắt dọn đàng mà nhọc lòng dân -
Gà luộc lại như gái cải giá
-
Cây trăm nhánh cùng về một cội
Cây trăm nhánh cùng về một cội
Nước nghìn sông chảy hội một dòng
Ai dầu lánh đục tìm trong
Em đây vẫn giữ một lòng với anh. -
Ông già tui chẳng ưa đâu
– Ông già tui chẳng ưa đâu
Hàm răng ông rụng, chòm râu ông dài.
– Con tôm con tép còn râu
Huống chi em bậu câu mâu sự đời
Thương nhau vừa dặm vừa dài
Cắn rứt chi đó mà đòi hàm răng?Dị bản
Ông già kia hỡi ông già
Cái răng ông rụng tôi mà chẳng thương
– Thương nhau vì rậm vì dài
Cắn rứt chi đó mà bậu nài cái hàm răng
-
Anh lên ngai, em kéo xuống ngai
Anh lên ngai, em kéo xuống ngai
Đất này chẳng thiếu gì trai anh hùng! -
Vang lừng đất Bắc, Tít bổng trời Đông
-
Ăn cướp dở không bằng ăn trộm
Ăn cướp dở không bằng ăn trộm
Chú thích
-
- Tam cúc
- Một trò chơi bài lá dân gian từng rất phổ ở miền Bắc, thường được chơi trong những khi rỗi rãi hoặc các dịp lễ tết. Bộ bài tam cúc có 32 lá với các quân tương tự như cờ tướng, chia làm hai loại là đỏ và đen. Xem thêm Cách chơi tam cúc.
-
- Lê Thần Tông
- Tên húy là Lê Duy Kỳ, vị vua thứ 6 của nhà Lê trung hưng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông là một vị vua "thông minh, học rộng, mưu lược sâu, văn chương giỏi, đáng khen là bậc vua giỏi."
Ông ở ngôi vua hai lần, lần thứ nhất qua các niên hiệu Vĩnh Tộ, Đức Long, Dương Hòa, lần thứ hai là Khánh Đức, Vạn Đức, Vĩnh Thọ và Vạn Khánh.
-
- Lê Huyền Tông
- Vị vua thứ 8 thời Lê trung hưng trong lịch sử nước ta. Ông lên ngôi tháng 10 năm Nhâm Dần (1662), khi mới 8 tuổi, hiệu là Cảnh Trị. Ở ngôi được 9 năm thì ông mất khi mới 17 tuổi.
-
- Chửa
- Chưa (từ cổ, phương ngữ).
-
- Lụy
- Nước mắt (phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ).
-
- Bâu
- Cổ áo.
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Bạn vàng
- Bạn thân, bạn quý. Thường dùng để chỉ người yêu.
-
- Sông Vịnh
- Cũng gọi là sông Cửa Khẩu, tên một đoạn sông nhỏ ở Hà Tĩnh do sông Kinh từ phía Bắc, sông Trí từ phía Tây và sông Quyền từ phía Nam tạo thành. Sông dài khoảng 10 km, nay thuộc địa phận xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh.
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Quế
- Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý (Quế chi) trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ.
-
- Hàng
- Đồ hay vải dệt mỏng bằng tơ nói chung.
-
- Bận
- Mặc (quần áo).
-
- Vạn thọ
- Một loài cây họ cúc, hoa thường có màu vàng hoặc cam, có rất nhiều cánh. Vì "vạn thọ" có thể dịch thoát ý là "sống thọ một vạn năm," nên hoa vạn thọ thường được nhân dân ta dùng trong các dịp Tết hoặc lễ cúng.
-
- Chệch
- Từ gọi một cách bình dân, thiếu tôn trọng dành cho người Hoa sinh sống ở nước ta. Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ từ a chệch, cách người Triều Châu (một vùng ở Trung Quốc) gọi chú (em của bố). Hiện nay từ này hay bị viết và đọc nhầm là chệt hoặc chệc. Ở miền Bắc, từ này có một biến thể là chú Chiệc.
-
- Thầy mẹ
- Cha mẹ (phương ngữ miền Bắc).
Con đi mười mấy năm trời,
Một thân, một bóng, nửa đời gió sương.
Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương,
Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
Thầy mẹ ơi, thầy mẹ ơi,
Tiếc công thầy mẹ đẻ người con hư!
(Thư gửi thầy mẹ - Nguyễn Bính)
-
- Và
- Vài.
-
- Cà Đó
- Một địa danh ở xã Đức Lương, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây nổi tiếng có thuốc lá rất ngon.
-
- Mắm
- Thức ăn làm bằng tôm cá sống ướp muối và để lâu ngày cho ngấu.
-
- Ngãi
- Nghĩa, tình nghĩa (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Bìm bìm
- Một loại cây leo, hoa hình phễu, trắng hoặc tím xanh, thường mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh ở các bờ rào.
-
- Cải giá
- Lấy chồng khác.
-
- Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Câu mâu
- Hay quạu, hay bắt lỗi bắt phép (Đại Nam quấc âm tự vị - Huình Tịnh Paulus Của).
-
- Đề Vang
- Một thủ lĩnh tài năng trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Ông tên thật là Vương Văn Vang, sinh ở làng Thuận An, nay thuộc xã Trạm Lộ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh . Trong quá trình chống Pháp, ông tự xưng là Đề đốc họ Vương, còn được gọi là Đề Vang, Tuần Vang, hoặc Đội Văn. Ngày 7/11/1889, ông bị Pháp chém đầu tại vườn hoa Pônbe (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ, Hà Nội), đầu bêu ở tỉnh Bắc Ninh, xác ném xuống sông Hồng.
-
- Đốc Tít
- Tên thật là Nguyễn Xuân Tiết (1853 - 1916), một thủ lĩnh của khởi nghĩa Bãi Sậy. Ông nguyên gốc họ Mạc, sinh trưởng tại làng yên Lưu Thượng, phủ Kinh Môn, Hải Dương. Trong phong trào chống Pháp ở Bắc Kỳ, ông được phong là Đề đốc Hải Dương (nên cũng gọi là Đốc Tít - chữ "Tít" là do người Pháp phát âm sai tên ông). Tháng 7/1889, Hoàng Cao Khải phối hợp cùng quân Pháp bao vây Đốc Tít ở căn cứ Trại Sơn. Thế cùng lực kiệt, ngày 12/8/1889, Đốc Tít cùng với toàn quân ra hàng. Rút kinh nghiệm Đề Vang trá hàng lúc trước nên người Pháp cho đày ông đi Algeri. Ông qua đời tại đây ngày 21/12/1916, thọ 63 tuổi.
-
- Vang lừng đất Bắc, Tít bổng trời Đông
- Nói về hai thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy là Đề Vang và Đốc Tít. Câu này có chơi chữ.