Ngồi trong cửa sổ chạm rồng
Chăn loan gối phượng không chồng cũng hư
Ngồi trong cửa sổ chạm rồng
Dị bản
Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng
Chiếu hoa nệm gấm không chồng cũng hư
Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng
Chiếu hoa nệm gấm không chồng cũng hư
Việc chạy bay khi gặp tay thợ khéo
Chó cậy nhà
Gà cậy vườn
Chó cậy gần nhà
Gà cậy gần chuồng
Kẻ đi kiệu, người đánh cờ
Kẻ thời đọc sách người xem thơ nói tuồng
Chồng tôi trốn tránh luôn luôn
Chuyện chi không nói giả tuồng đứa câm
Nghĩ ra chuốc khổ vào thân
Trách cho bà Nguyệt xe lầm mối tơ
Tiếc công phu mấy đợi mấy chờ
Sĩ nho không gặp, gặp đứa khờ làm chi
Hay vầy tui chẳng có chồng chi
Một mình ở vậy quy y lên chùa
Vải thưa che mắt thánh
Trắng trong giữ giá nhà vàng,
Răng đen má đỏ, đợi chàng đầu xanh
Chở củi về rừng
Đói ăn vụng,
Túng làm càn
Xin em một miếng trầu vàng,
Mai sau anh trả cho nàng hoa tai
Cho anh một lá trầu vàng
Sang năm anh trả cho nàng một mâm
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
(Truyện Kiều)
Về tên gọi, "bộ" đây có nghĩa là diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn, nên gọi là "hát bộ", "diễn bộ", "ra bộ.. Gọi là “hát bội” là vì trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướng, lông công, lông trĩ… lên người. Còn "tuồng" là do chữ "Liên Trường" (kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn), do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng," "luôn tuồng..."
Xem vở hát bội Thần nữ dâng Ngũ Linh Kỳ.
Chữ rằng: Hồ Việt nhứt gia
Con đi tới đó trao qua thơ này
(Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.
(Cung oán ngâm khúc)
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.