Phụ đồng, phụ chổi
Thổi lổi mà lên
Ba bề, bốn bên
Đồng lên cho chóng
Nhược bằng cửa đóng
Phá ra mà vào
Cách sông, cách ao
Cũng vào cho lọt
Cái roi von vót
Cái vọt cho đau …
Ngẫu nhiên
-
-
Bữa ăn có cá cùng canh
Bữa ăn có cá cùng canh
Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàngDị bản
Ăn cơm có cá, có canh
Ăn vô mát bụng như anh gặp nàng
-
Chó liền da gà liền xương
Chó liền da,
Gà liền xương -
Tối qua tôi đi ra gò
-
Mèo nằm cho chuột đến vồ
-
Đã cam quấn quít má đào
-
Chắp cánh cho hổ
Chắp cánh cho hổ
-
Đường về Lương Phú quanh co
-
Đường vô xứ Huế quanh quanh
-
Con út con ít như mít chín cây
Con út con ít như mít chín cây
Gái cũng như trai, ai ai cũng chuộng -
Một lo đứng cửa trông ra
Một lo đứng cửa trông ra
Hai lo đi lấy chồng xa nước người
Ba lo sợ chị em cười
Bốn lo đi ngược về xuôi sao đành
Năm lo lúc tử lúc sinh
Sáu lo con cái một mình đường xa
Bảy lo còn chút mẹ già ai nuôi
Chín lo em thiệt cả mười
Để em kiếm lối tìm nơi đi về -
Quần em rách dọc, rách ngang
-
Khoai lang củ sượng, củ trân
-
Bát nước giải bằng vại thuốc
-
Gió đưa bụi chuối sau hè
Dị bản
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, nách cặp con dao.
-
Anh tham ba chốn bốn quê
Anh tham ba chốn bốn quê
Anh phụ lời thề anh cực tấm thân -
Thấp cổ bé họng
-
Nhà còn một cụm thung huyên
-
Chó chạy ruộng khoai
-
Tay cầm tấm mía con dao
Chú thích
-
- Nhược bằng
- Nếu như (từ cổ).
-
- Gò
- Khoảng đất nổi cao lên giữa nơi bằng phẳng.
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Tứ Cẳng.
-
- Bấc
- Sợi vải tết lại, dùng để thắp đèn dầu hoặc nến. Ở một số vùng quê, bấc còn được tết từ sợi bông gòn. Hành động đẩy bấc cao lên để đèn cháy sáng hơn gọi là khêu bấc.
-
- Má đào
- Má hồng, chỉ người phụ nữ đẹp.
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
(Truyện Kiều)
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Tơ hồng
- Xem chú thích Nguyệt Lão.
-
- Lương Phú
- Địa danh nay là một xã thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
-
- Truông
- Vùng đất hoang, có nhiều cây thấp, lùm bụi, hoặc đường qua rừng núi, chỗ hiểm trở (theo Đại Nam quấc âm tự vị).
-
- Truông nhà Hồ
- Một địa danh nằm giữa xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị và xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Từ nhà Hồ ngày xưa dùng chỉ đất của người Hồ (tức Chiêm Thành cũ). Theo Giáo sư Tôn Thất Bình, một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian miền Trung Việt Nam, thì xưa kia đây là một vùng đất rộng bạt ngàn, cây cối um tùm, là sào huyệt của một băng cướp rất nguy hiểm, ai đi qua cũng thường bị chúng bắt bớ, giết chóc.
Sau này truông Nhà Hồ còn là nơi trú ngụ của các nghĩa sĩ Cần Vương đi theo vua Hàm Nghi và quan đại thần Tôn Thất Thuyết chống thực dân Pháp.
-
- Phá Tam Giang
- Tên một cái phá nay thuộc địa phận của ba huyện là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Phá Tam Giang có khúc cạn khúc sâu bất thường nên việc đi lại rất khó khăn nguy hiểm.
Ngày nay phá Tam Giang là một hệ sinh thái rộng 52 km², cung cấp hàng nghìn tấn hải sản hàng năm, đồng thời cũng là một địa điểm du lịch khá nổi tiếng của Huế.
-
- Rày
- Nay, bây giờ (phương ngữ).
-
- Nguyễn Khoa Đăng
- (1691 - 1725) Một đại thần thời Chúa Minh (Nguyễn Phúc Chu). Ông là người thông minh mưu lược, cương trực thẳng thắn, có tài xử kiện, làm quan đến chức Nội Tán kiêm Án Sát Sứ, nên nhân dân gọi ông là quan Nội Tán. Tương truyền ông có công dẹp yên giặc cướp ở truông Nhà Hồ và trừ sóng dữ ở phá Tam Giang.
-
- Quan san
- Cửa ải (quan) và núi non (san), cũng nói là quan sơn (từ Hán Việt). Trong văn chương, quan san thường được dùng để chỉ đường sá xa xôi, cách trở.
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
(Truyện Kiều)
-
- Theo giai thoại, câu hát này do một cô gái hát để trêu Trần Hàn, trong có nhắc tên ông (Hàn) và tên thân phụ ông (Trần Liệu).
-
- Trân
- (Khoai) luộc chưa chín. Đồng nghĩa với sượng.
-
- Bè
- Bầy.
-
- Thấp cổ bé họng
- Người có vị trí thấp hèn, khi bị chèn ép hay có điều gì oan ức không biết kêu ai, có kêu cũng không ai biết.
-
- Thung huyên
- Cây thung và cỏ huyên, tượng trưng cho cha mẹ. Xem thêm Nhà thung và Huyên đường.
-
- Tuyền
- Toàn.
-
- Chó chạy ruộng khoai
- Lông bông, không mục đích.
-
- Chuồn chuồn
- Tên chung của một bộ côn trùng gồm hơn 4500 loài, chia thành hai nhóm lớn: chuồn chuồn ngô và chuồn chuồn kim, khác nhau chủ yếu ở tư thế của cánh khi đậu và hình dạng của ấu trùng. Chuồn chuồn có đầu tròn và khá lớn so với thân được bao phủ phần lớn bởi hai mắt kép lớn hai bên, hai bên có cánh mỏng, dài, mỏng và gần như trong suốt. Trẻ em ở thôn quê thường bắt chuồn chuồn chơi.
-
- Bối
- Những sợi dây quấn buộc với nhau. Cũng có khi nói là búi, bới.
-
- Tơ vương
- Tơ bị dính vào nhau; thường được dùng trong văn chương để ví tình cảm yêu đương vương vấn, khó dứt bỏ.