Ngẫu nhiên
-
-
Lò dò như cò phải bão
Lò dò như cò phải bão
Dị bản
Lò dò như cò ăn đêm
-
Phụ mẫu sinh ra có cặp chân mày
-
Mắt la mày lét
Mắt la mày lét
-
Hôm qua anh đến chơi nhà
Hôm qua anh đến chơi nhà,
Thấy mẹ nấu cháo, thấy cha vét nồi
Thấy em dựa cột liếm môi
Anh vào đến ngõ, anh lùi chân ra -
Trâu ai ăn mạ
-
Thương em nên mới đi đêm
-
Múa búa trước cửa Lỗ Ban
Dị bản
Múa rìu trước cửa Lỗ Ban
Múa bùa trước cửa Lỗ Ban
-
Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn
Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn
-
Làm trai học sẩy học sàng
-
Ví dầu, ví dẩu, ví dâu
-
Cơn lạnh còn có cơn nồng
Cơn lạnh còn có cơn nồng
Cơn đắp áo ngắn, cơn chung áo dài
Hay là chàng đã nghe ai
Áo ngắn chẳng đắp áo dài chẳng chung -
Xóm Cồn là xóm Cồn còi
-
Đàn bà chưa nói đã cười
Đàn bà chưa nói đã cười
Lương duyên vất vả, cuộc đời truân chuyên -
Phải chi mình vợ, tôi chồng
Phải chi mình vợ, tôi chồng
Biểu tôi đi lấy gan rồng cũng đi
Hai đứa mình xứng nút vừa khuy
Lựa ngày nào tốt dẫn đi cho rồi -
Chàng đừng có lóng trong gạn đục
-
Vinh quy bái tổ sau rổ bèo đầy
-
Có chà, cá mới ở ao
-
Mèo nhỏ bắt chuột con
Mèo nhỏ bắt chuột con
-
Phải chăng là gái lạc nòi
Chú thích
-
- Ả
- Từ dùng để chỉ chị gái.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Mạ
- Cây lúa non. Sau khi ngâm ủ thóc giống, người ta có thể gieo thẳng các hạt thóc đã nảy mầm vào ruộng lúa đã được cày, bừa kỹ hoặc qua giai đoạn gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có sức phát triển tốt, sau một khoảng thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa chính.
-
- Rạ
- Rơm, phần còn lại của lúa sau khi gặt. Nhân dân ta thường dùng rơm rạ để lợp nhà hoặc làm chất đốt.
-
- Hổng
- Không (khẩu ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Lỗ Ban
- Được xem là ông tổ của nghề mộc và nghề xây dựng. Có nguồn dẫn rằng ông là một thợ mộc rất giỏi của nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông) thời Xuân Thu (770-476 TCN), tên là Ban, nên gọi là Lỗ Ban (ông Ban người nước Lỗ). Theo dân gian, trong nghề mộc có “bùa Lỗ Ban” do những người thợ mộc dùng ếm cho chủ nhà phải gặp tai ương.
-
- Sảy
- Cũng viết là sẩy, động tác hất cái nia hoặc sàng đựng lúa lên xuống đều đặn để tách vỏ và hạt lép ra khỏi hạt mẩy.
-
- Sàng
- Đồ đan bằng tre, hình tròn, lòng nông, có lỗ nhỏ và thưa, thường dùng để làm cho gạo sạch thóc, trấu và tấm. Hành động dùng cái sàng mà lắc cho vật vụn rơi xuống, vật to còn lại cũng gọi là sàng.
-
- Ví dầu
- Nếu mà, nhược bằng (từ cổ). Cũng nói là ví dù.
-
- Lợi
- Lại (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Ví
- Đuổi (theo). Từ này ở Trung và Nam Bộ phát âm thành dí.
-
- Cồn
- Một xóm nằm giữa hai thôn Triêm Trung và Thanh Chiêm, thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
-
- Khoai lang
- Một loại cây nông nghiệp với rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột, có vị ngọt, gọi là củ khoai lang. Nhân dân ta trồng và sử dụng khoai lang làm lương thực, tận dụng cả phần củ (rễ), thân, và lá.
-
- Lắng
- Để yên cho cấn, bã chìm xuống đáy. Cũng gọi là lóng.
-
- Giao tình
- Kết bạn, gắn bó với nhau (từ cũ, nay ít dùng).
-
- Câu này nhắc chuyện tể tướng Nguyễn Quán Nho. Tương truyền ngày ông vinh quy bái tổ về làng, mặc cho các quan lại hàng tổng hàng huyện chuẩn bị đón rước, mẹ ông vẫn bình thản ra ao làng vớt bèo về nuôi lợn. Khi lý trưởng mời bà về dự lễ rước, bà nói:
- Ừ, nó đỗ thì tôi cũng mừng. Nhưng chẳng biết từ nay nó còn nhớ gì đến cảnh vớt bèo nuôi lợn này không?
Nguyễn Quán Nho nghe kể lại, vội cởi áo mũ, cởi giày, xắn quần ra ao làng cầm gậy vớt đầy rổ bèo đem về nhà rồi mời mẹ ra đình làng làm lễ.
-
- Chà
- Cành cây có nhiều nhánh nhỏ, thường dùng để rào hoặc thả dưới nước cho cá đến ở. Miền Trung có chỗ gọi là nè (cành nè, cây nè).
-
- Ni
- Này, nay (phương ngữ miền Trung).
-
- Bài chòi
- Một loại hình trò chơi dân gian và nghệ thuật độc đáo ở miền Trung, được tổ chức hằng năm vào dịp Tết Nguyên đán. Người ta dựng 9-11 chòi trên một bãi đất trống. Bộ bài để đánh bài chòi gồm 33 lá, với những cái tên nôm na như: Nhứt Nọc, Nhì Nghèo, Ông Ầm, Sáu Ghe, Bảy Liễu... vẽ trên giấy, dán vào thẻ tre. Vào cuộc chơi, anh hiệu (tức người hô thai) xóc ống bài, rút ra một con và xướng tên con bài lên. Để gây thêm sự hồi hộp và bắt người chơi phải suy đoán, anh hiệu hô lên một câu thai hoặc một câu ca dao có tên con bài. Chòi nào trúng tên con bài thì gõ mõ để anh hiệu mang con bài đến. Trúng ba con bài là chòi đó “tới.”