Vì mày, tao phải đánh tao
Vì tao, tao đánh cả tao lẫn mày
Ngẫu nhiên
-
-
Sinh nghề tử nghiệp
Sinh nghề tử nghiệp
-
Lắm nghề xề môi
-
Mũi Nạy có hòn đá Bia
-
Chuột chù chê khỉ rằng hôi
-
Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa
Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa
-
Cửu đại còn hơn ngoại nhân
-
Thương em vô giá quá chừng
Thương em vô giá quá chừng
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay
Nhác trông thấy bóng em đây
Ăn chín lạng hạt ớt ngọt ngay như đường -
Có lưỡi có cả luôn răng
-
Thân em như cái sập vàng
-
Trăm năm xe sợi chỉ hồng
-
Bằng cái đĩa
-
Đồn rằng cấy lũ thì vui
Đồn rằng cấy lũ thì vui
Ta rủ được người ta bán lợn đi
Quan năm, quan tám ngại chi
Dù đắt dù rẻ quản chi đồng tiền
Nồi đồng đem gửi láng giềng
Nồi đất để đó, chẳng phiền chẳng sao
Cổng thì rấp chông, rấp rào
Đêm khuya thanh vắng ai vào chi đây
Còn một con khuyển nhà nầy
Nếu đem đi gửi nó hay trở về
Hay là làm thịt quách đi
Gói mo luộc kỹ đem đi ăn đường! -
Chớ bán gà ngày gió, chớ bán chó ngày mưa
Dị bản
Bán gà tránh gió, bán chó tránh mưa
Bán gà kiêng trời gió, bán chó kiêng trời mưa
-
Giếng Bình Đào vừa trong vừa mát
-
Trầu xanh, cau trắng, chay vàng
-
Trời chiều bóng đã nhá nhem
Trời chiều bóng đã nhá nhem
Thương anh chưa vợ, thương em chưa chồng
– Thôi anh ơi! Chớ có buồn
Khúc sông ở đó, ngọn nguồn ở đây -
Tiếng đồn dê đực khỏe thay
-
Tôi đi ngang nhà má
-
Ai về ai ở mặc ai
Chú thích
-
- Lắm nghề xề môi
- Biết nhiều nghề nhưng không tinh, không chuyên một món nào cả nên khó kiếm ăn (đói trề môi).
-
- Mũi Đại Lãnh
- Còn có tên gọi khác là Mũi Nạy, Mũi Ba, Mũi Điện, Cap Varella (đặt theo tên một tướng giặc Pháp tự cho có công phát hiện nơi này), thuộc địa phận thôn Phước Tân, xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên. Đây là một nhánh của dãy Trường Sơn đâm ra biển. Trên mũi có ngọn hải đăng lớn chỉ đường cho tàu thuyền trong khu vực. Đây được xem là điểm cực Đông, nơi đón ánh nắng đầu tiên của nước ta.
-
- Núi Đá Bia
- Tên chữ là Thạch Bi Sơn, dân gian cũng gọi là núi Ông hoặc Đá Chồng, ngọn núi cao nhất trong khối núi Đại Lãnh thuộc dãy Đèo Cả, một thời là cột mốc biên giới của Đại Việt xưa. Đá Bia nằm ở xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, phía Nam tỉnh Phú Yên, nổi tiếng vì tảng đá Bia khổng lồ cao khoảng 80 m trên đỉnh núi, đứng cách xa vẫn nhìn thấy. Có tên như vậy vì tương truyền vào năm 1471, khi thân chinh cầm quân tấn công Chăm Pa, vua Lê Thánh Tông dừng tại chân núi, cho quân lính trèo lên khắc tên, ghi rõ cương vực Đại Việt tại nơi này.
-
- Bãi Nồm
- Một bãi biển nay thuộc địa phận thôn Hòa An, xã Xuân Hòa, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Hiện nay đây là một điểm đến du lịch nổi tiếng của địa phương.
-
- Chuột chù
- Một giống chuột ăn thịt, thức ăn chủ yếu là côn trùng, chim non, ếch, chuột nhắt... Chuột chù có mùi rất hôi.
-
- Cửu đại
- Chín đời (từ Hán Việt).
-
- Ngoại nhân
- Người ngoài (từ Hán Việt).
-
- Cửu đại còn hơn ngoại nhân
- Bà con dẫu xa (chín đời) vẫn còn hơn người ngoài.
-
- Sập
- Loại giường không có chân riêng, nhưng các mặt chung quanh đều có diềm thường được chạm trổ. Sập thường được làm bằng gỗ quý, thời xưa chỉ nhà giàu mới có.
-
- Tơ hồng
- Xem chú thích Nguyệt Lão.
-
- Khuôn trời
- Khuôn do trời định, hay duyên tiền định. Người xưa ví tạo hóa sinh ra muôn vật như người ta dùng khuôn nặn đồ gốm, vì vậy thường gọi tạo hóa là khuôn thiêng, khuôn xanh, và tình duyên do trời định là khuôn duyên.
-
- Cấy lũ
- Hình thức cấy thuê/mướn tập thể thời xưa. Mỗi lũ gồm khoảng 15 đến 50 người, đứng đầu là một trưởng nhóm. Khoảng 4 giờ sáng người trưởng nhóm đến từng xóm thổi chiếc tù và làm bằng sừng trâu phát ra âm thanh rất đặc biệt gọi công đi cấy. Khi đã đông đủ, người trưởng nhóm dẫn công cấy ra đồng vừa đi vừa thổi như vừa động viên, vừa thúc dục. Công việc cấy lũ thường là phụ nữ làm.
-
- Rấp
- Che chắn, ngăn lại.
-
- Khuyển
- Chó (từ Hán Việt)
-
- Chớ bán gà ngày gió, chớ bán chó ngày mưa
- Ngày gió gà dễ bị toi, ngày mưa thì chó xấu mã.
-
- Bình Đào
- Địa danh nay là vùng đất bao gồm hai xã Bình Minh và Bình Đào, huyện Thanh Bình, tỉnh Quảng Nam.
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Ni
- Này, nay (phương ngữ miền Trung).
-
- Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
-
- Cau
- Loại cây nhiều đốt, thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu.
-
- Chay
- Một loại cây to cùng họ với mít, được trồng ở nhiều nơi, đặc biệt là các vùng rừng núi miền Trung. Quả chay có múi, khi chín có màu vàng ươm, ruột màu đỏ, vị chua, có thể ăn tươi hoặc dùng kho với cá, cua. Vỏ hoặc rễ cây dùng để ăn trầu hoặc làm thuốc nhuộm.
-
- Cơi trầu
- Một đồ dùng thường làm bằng gỗ, phủ sơn, trông như một cái khay tròn có nắp đậy, dùng để đựng trầu. Tục xưa khi khách đến nhà, chủ thường mang cơi trầu ra mời khách ăn trầu.
-
- Ách
- Đoạn gỗ cong mắc lên cổ trâu bò để buộc dây kéo xe, cày bừa...
-
- Lỗ đầu
- Rách da đầu, chảy máu hoặc vỡ đầu (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Tía
- Cha, bố (phương ngữ Nam Bộ). Từ này có gốc từ cách phát âm của người Triều Châu khi đọc chữ gia (cha).
-
- Đượm
- (Nói về chất đốt) Dễ bắt lửa, cháy tốt, đều và lâu.
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.