Chuột chê xó bếp chẳng ăn
Chó chê nhà dột ra lần bụi tre.
Ngẫu nhiên
-
-
Lẳng lơ cũng chẳng có mòn
-
Thắp nhang cho sáng bàn thờ
Thắp nhang cho sáng bàn thờ
Kẻo cha mẹ quở không nhờ rể con -
Chuồn chuồn có cánh thì bay
Dị bản
Chuồn chuồn có cánh thì bay
Kẻo thằng ỏng bụng bắt mày đem chônChuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng kẻ trộm bắt mày đi tu
-
Trăng rằm đã tỏ lại tròn
-
Nước có khi trong khi đục
Nước có khi trong khi đục
Người có kẻ tục người thanh -
Mưa từ trong núi mưa ra
-
Nâng khăn sửa túi
Nâng khăn sửa túi
-
Công mô mà công, nợ mô mà nợ
-
Mây mưa không hại chi nguồn
-
Ở đâu âu đấy
-
Ai đi lơ lửng ngoài sân
Ai đi lơ lửng ngoài sân
Bứt dây trói lại hỏi dân làng nào? -
Người thì mớ bảy mớ ba
-
Bụt Nam Xang còn chê oản chiêm
-
Nhiều người một mặt hai lòng
Nhiều người một mặt hai lòng
Nói thì nói vậy chớ không giữ lời -
Thương anh dầu dãi nắng mưa
Thương anh dầu dãi nắng mưa,
Hết khơi ruộng thấp lại bừa ruộng cao -
Cây bồ đề rụng lá giơ xương
-
Anh về dưới Yến mây che
-
Tới đây em muốn ở đây
Tới đây em muốn ở đây
Chừng nào duyên nghĩa hết say mới về -
Chữ lập đập chữ viết, chữ viết đập chữ thập
Chú thích
-
- Chính chuyên
- Tiết hạnh, chung thủy với chồng (từ Hán Việt).
-
- Sơn son thếp vàng
- Sơn màu đỏ và dát vàng mỏng lên với mục đích trang trí.
-
- Chuồn chuồn
- Tên chung của một bộ côn trùng gồm hơn 4500 loài, chia thành hai nhóm lớn: chuồn chuồn ngô và chuồn chuồn kim, khác nhau chủ yếu ở tư thế của cánh khi đậu và hình dạng của ấu trùng. Chuồn chuồn có đầu tròn và khá lớn so với thân được bao phủ phần lớn bởi hai mắt kép lớn hai bên, hai bên có cánh mỏng, dài, mỏng và gần như trong suốt. Trẻ em ở thôn quê thường bắt chuồn chuồn chơi.
-
- Tỏ
- Sáng, rõ.
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
-
- Đồn Vàng
- Tên một cái đồn do Pháp lập ra ở huyện lị Thanh Sơn, tỉnh Vĩnh Phú, nay là phố Vàng, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
-
- Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Ví dầu
- Nếu mà, nhược bằng (từ cổ). Cũng nói là ví dù.
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Dùn
- Chùng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Âu
- Lo âu. Đọc chạnh từ ưu.
-
- Ở đâu âu đấy
- Ở nơi nào thì chăm lo, vun vén cho nơi ấy.
-
- Mớ bảy mớ ba
- Bộ trang phục của phụ nữ Việt thời xưa, dùng trong các dịp lễ, với áo váy gồm nhiều lớp, nhiều màu sắc, ngày nay còn dùng trong một số lễ hội như hát quan họ ở Bắc Ninh (theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng).
-
- Áo tơi
- Áo khoác dùng để che mưa nắng. Áo được làm bằng lá cây (thường là lá cọ) hoặc rơm rạ, khâu chồng thành lớp gối lên nhau dày hàng đốt tay, như kiểu lợp ngói, đánh thành tấm, phía trên có dây rút để đeo vào cổ giữ áo cố định trên lưng.
-
- Bụt
- Cách gọi dân gian của Phật, bắt nguồn từ cách phiên âm từ Buddha (bậc giác ngộ - Phật) trong tiếng Ấn Độ.
-
- Lý Nhân
- Một huyện thuộc tỉnh Hà Nam, có tên cũ là huyện Nam Xương, biến âm thành Nam Xang. Huyện nằm ở phía đông của tỉnh, bên bờ sông Hồng. Tên Nam Xương được nhắc đến trong tác phẩm nổi tiếng Người con gái Nam Xương, câu chuyện xảy ra từ thời Trần, lưu truyền trong dân gian và được Nguyễn Dư được chép lại vào cuối thế kỷ 16 trong tập Truyền kỳ mạn lục.
Lý Nhân là nơi giàu truyền thống văn hóa - lịch sử. Trống đồng Ngọc Lũ - chiếc trồng đồng còn nguyên vẹn và có giá trị nhất nước ta - được tìm thấy ở đây.
-
- Oản
- Bánh làm bằng xôi nếp hoặc bột bánh khảo nén vào khuôn hình nón cụt để cúng.
-
- Chiêm
- (Lúa hay hoa màu) gieo cấy ở miền Bắc vào đầu mùa lạnh, khô (tháng mười, tháng mười một) và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều (tháng năm, tháng sáu), phân biệt với mùa. Đây cũng là cách gọi tắt của "lúa chiêm." Theo sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, người Việt trước đây đã học cách trồng một số giống lúa gieo vào mùa đông, thu hoạch vào mùa hạ từ người Chiêm Thành, nên gọi là lúa chiêm hay lúa chăm.
-
- Oản chiêm
- Oản đóng bằng lúa nếp vụ chiêm, không ngon bằng lúa nếp vụ mùa.
-
- Bồ đề
- Còn gọi tắt là cây đề, một loại cây lớn, có ý nghĩa thiêng liêng trong quan niệm của Ấn Độ giáo, Kì Na giáo và Phật giáo. Tương truyền thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm ngồi thiền định dưới một gốc cây như vậy và đạt giác ngộ, trở thành một vị Phật (Thích Ca), từ đó cây có tên bồ đề (theo âm tiếng Phạn bodhi, có nghĩa là giác ngộ, thức tỉnh).
-
- Hòn Yến
- Tên một đảo đá cao nằm ngoài khơi xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngày xưa nơi đây có rất nhiều chim yến đến làm tổ, nên có tên gọi như vậy. Hiện nay Hòn Yến được xem là một thắng cảnh độc đáo của Phú Yên.
-
- Biểu
- Bảo (phương ngữ Trung và Nam Bộ).